Sưu tầm
…
Nhưng khi mùa Vu Lan về, cầm hoa trắng trên tay, tôi không thể ngăn được
những giọt lệ hồng phát xuất từ trái tim tôi… Than ôi! Khi tôi biết nghĩ tới
mẹ, biết giá trị của trái tim bồ tát, biết thương mẹ thì bà đã không còn nữa
trên đời…
Nghe
mẹ kể lại lời dì, tôi cảm thấy hơi áy náy. Quả thật tôi cần mẹ không chỉ
thuần túy vì tình cảm. Tôi cầu cứu bà sang để chăn bầy cháu bốn đứa. Dạo này
buôn bán ể ẩm, tôi không kham nỗi tiền giữ trẻ, cũng không thể tiếp tế đều
đặn cho mẹ nên rước bà qua là nhứt cử lưỡng tiện… Căn nhà ba phòng của vợ
chồng tôi, bề ngoài trông cũng khang trang với cây cảnh chung quanh và cửa
garage tự động nhưng thật ra chỉ rộng 1100 sf. Trừ phòng ngủ chánh tương đối
rộng rãi, hai phòng còn lại vuông vức, nhỏ xíu xiu. Đất ở San Francisco là
đất vàng. Căn nhà cũ kỷ năm mươi tuổi này trị giá chừng sáu chục ngàn nhưng
lô đất 4000 sf của nó giá hơn bốn trăm, dù là nằm ở vùng ngoại ô xa tít.
Thành ra cứ rán giữ, rán nắm dù mệt muốn hụt hơi. Cửa tiệm fast food bán cho
nhân viên các hãng xưởng gần đây cũng theo đà lay-off mà đi xuống. Đến đầu
tháng là chúng tôi điên đầu với đủ thứ tiền phải thanh toán. Tư trang sắm từ
những năm phồn thịnh buôn may bán đắt lặng lẽ nối đuôi nhau đi hết, vào nằm
im nơi các tiệm cầm đồ. Chúng tôi không hề nghĩ đến giải pháp bán nhà vì đó
là gia tài duy nhất, cũng là mối kinh doanh không sợ lỗ vốn; vả lại bây giờ
đi mướn một apartment tồi tàn đủ chỗ chứa sáu người, giá thuê hàng tháng còn
mắc hơn số tiền trả góp nhà. Trong
tình thế kiệt quệ này, nếu có mẹ tôi lo cho tụi nhỏ, đưa đón đi học, quán
xuyến việc nhà, tôi sẽ rảnh rang hơn để đi làm thêm lặt vặt buổi sáng, trưa
về phụ tiệm ăn với chồng tôi. Buổi tối chúng tôi sẽ đi clean các tiệm ăn, chợ
búa. Chịu khó một thời gian hi vọng kinh tế sẽ phục hồi trở lại. Mọi người đã
hăm hở đón chào thiên niên kỷ mới, ai ngờ nó bắt đầu bằng sự xuống dốc! Mẹ
sang Mỹ vào mùa Thu. Trời khá lạnh đối với mẹ vì chưa quen, nhưng màu xanh
của biển trời đã thu hút mẹ. Lũ cháu xúm xít lấy bà vì ngày thường không ai
gần gũi chúng cả. Chúng xổ tiếng Anh líu lo, thậm chí cô bé út mới bốn tuổi
cũng không rành tiếng Việt. Bà cười dễ dãi: “Sẽ có cuộc trao đổi nhé! Bà dạy
các cháu nói tiếng Việt, các cháu dạy cho bà nói tiếng Anh.” Thấy mẹ vui, tôi
an lòng. Thế là bên cạnh cái giường hai tầng của hai cô bé gái là tấm nệm của
bà ngoại. Ban đêm, ba bà cháu nói chuyện rì rầm; có khi hai cậu trai cũng gõ
cửa xin vào để được hưởng không khí đầm ầm bên bà ngoại rất hiền và rất vui.
Mẹ như bà tiên có chiếc đũa thần đã biến căn nhà bừa bãi đầy phiền muộn của
chúng tôi thành một tổ ấm ngăn nắp, sạch sẽ và đầy tiếng cười. Trước kia,
chúng tôi chỉ dùng những thức ăn ế ẩm từ cửa hàng, lắm khi nuốt chẳng trôi.
Mẹ bảo cứ bỏ thịt bỏ rau và tủ lạnh cho bà. Thế là mỗi chiều về gia đình tôi
được quây quần chung quanh bàn ăn có cơm canh nóng hổi, hương vị ngọt ngào. Chỉ
sau vài tháng, các con tôi khỏe mạnh ra, lễ phép ra và biết phụ giúp công
việc lặt vặt trong nhà. Hai cậu con trai lớn, bà phân công lo vườn tược cây
kiểng: “Thằng Hùng mười hai tuổi, lớn rồi, lo chăm sóc các cây lớn, tỉa lá,
bón phận, Hậu cũng mười tuổi rồi, thay vì ôm máy chơi game, có thể phụ anh
quét sân, tưới nước.” Bà hiền lành nhưng nói gì các cháu cũng nghe. Chúng
không còn là những đứa bé “vô tích sự” như thuở trước. Thật ra chúng không
đến nỗi tệ nhưng vợ chồng tôi quần quật với công ăn việc làm, không có thì
giờ dạy dỗ, chỉ vẽ. Bảo làm chuyện gì, chúng thực hiện qua loa lấy có, rầy
mãi phát mệt thành ra không thèm sai biểu nữa, tự mình làm chóng xong mà vừa
ý hơn. Con Hoa hãnh diện khoe với mẹ: “Bà dạy con nấu cơm. Con biết lặt rau,
rửa chén, lại biết tráng trứng nữa cơ!” Tôi hôn con, thầm cám ơn mẹ đã cho
gia đình tôi cơ hội để sống có hạnh phúc thay vì cứ mãi rầy rà, cãi vả, gây ó
nhau trong một căn nhà bề bộn, dơ bẩn. Mẹ
vốn là một Phật tử thuần thành. Thỉnh thoảng bà giảng dạy cho tôi về đạo lý:
“Hạnh phúc không phải là món quà từ đâu đến, không phải tự nhiên mà có, cũng
chẳng thể do phúc đức mà được. Mình phải biết cách sống, biết cách hợp tác
xây dựng thì mới có hạnh phúc.” Thuở ấy, đầu óc tôi quá dầy đặc với những con
số để có thể hiểu lời mẹ khuyên, vả lại cũng không có thì giờ… Thôi thì để mẹ
lo giùm. Mỗi chiều về nhìn các con ngoan, được ăn bữa cơm tối ngon, đối với
tôi đã là đủ rồi. Tôi
bận rộn với nợ nần đến nỗi không mấy khi chú ý đến tâm tình của mẹ. Bây giờ
kiểm điểm lại mới nhớ rằng tôi ít hỏi thăm về sự buồn vui của bà. Thay đổi
môi trường sống, bà bỏ lại sau lưng biết bao nhiêu thứ: chị em, họ hàng, lối
xóm, sư ông, bằng hữu… Đôi khi, mắt mẹ thoáng buồn. Tôi chỉ hỏi qua loa: “Mẹ
có mệt không?” Chao ôi, rõ tệ, miệng hỏi mà lòng vái thầm: “Mẹ đừng ngã bệnh,
khổ con!” Là con một nên cách suy nghĩ của tôi thường ích kỷ như thế. Cái gì
cũng qui về mình, cho mình thôi! Thấm thoát, mẹ ở với chúng tôi đã được một
năm rồi. Gia đình thì ổn thỏa nhưng tình trạng tài chánh càng ngày càng bết
bát mặc dù vợ chồng tôi bỏ sức lao động gấp đôi. Giao kèo mướn cửa tiệm sắp
hết hạn mà chẳng tìm được người sang lại. Không ký thêm thì mất tiệm, mất
luôn năm mươi ngàn bỏ ra sang tiệm trước kia, nhưng tiếp tục thì ngày càng
thua lỗ, chẳng kham được nữa. Chuyện
gì đến, phải đến. Tháng sau đó, vợ chồng tôi lủi thủi dọn đồ về trả lại cửa
hàng cho người ta sau mười năm làm chủ. Bây giờ hóa ra là kẻ làm công, lại
làm những nghề linh tinh quét dọn. Tủi thân mà tức số phận mình. Mẹ an ủi:
“Thôi, như thế đỡ lo con ạ. Tinh thần căng thẳng quá có khi phát dại, hóa
cuồng! Trong cái dở có cái hay là thế!” Chúng tôi lợi dụng thời gian tương
đối rảnh rang này để sửa chữa căn nhà hư dột. Anh Thắng chịu khó và khéo tay
nên cái gì cũng tự làm được, đỡ tốn tiền mướn thợ. Một hôm anh leo lên mái
nhà để lợp lại mấy miếng ngói bể. Sơ ý thế nào chẳng rõ, anh trợt chân té
xuống bất tỉnh. Chỉ có mình mẹ ở nhà! Bà bình tĩnh gọi 911, vắn tắt vài câu
tiếng Anh: “He falls down from the roof. He stops breathing!” Và rành rọt đọc
địa chỉ, số phone nhà cho họ. Ai ngờ bà âm thầm học chữ Anh mau đến thế! Bà
đã cứu mạng chồng tôi! Thắng
bị gãy chân và dập ống quyển. Phải nằm tại chỗ từ năm đến sáu tháng. Tình
cảnh này đưa mẹ tôi vào môi trường mới. Bà tự nguyện thế chỗ cho chồng tôi để
quét dọn, lau chùi các cửa tiệm hầu phụ giúp tôi về tài chánh. Mẹ hăng hái
trong công việc. Tôi đoán rằng ở nhà mãi mẹ cũng buồn, nay được ra ngoài bà
cảm thấy vui hơn. Bà có những người bạn mới: cô thâu ngân vui tính, bà lão
phụ trách hàng rau cải, chú “Thoòng” chuyên khuân vác. Mẹ hòa mình với họ,
với cuộc sống của những người lao động tay chân. Đâu ai biết rằng trước 1975,
mẹ là giáo sự dạy Pháp văn tại một trường công lập lớn ở Sài Gòn. Các con tôi
biết hoàn cảnh bi đát của gia đình nên mỗi đứa một tay, cùng nhau lo chuyện
nhà. Mẹ tôi hài lòng thấy các cháu tự ý thức được trách nhiệm, biết thương mẹ
thương cha. Ngày
anh Thắng trở lại công việc, tôi xin mẹ ở nhà nghỉ ngơi. Mẹ nói: “Con ơi, ra
ngoài cũng vui, lại kiếm được đồng tiền. Từ ngày đi Mỹ đến nay đã gần hai
năm, mẹ chưa gửi tiền về giúp các em, các cháu bên ấy. Tụi nó nghèo lắm mà
chẳng có cách kiếm ra tiền cho kịp đà leo thang của vật giá. Bên này kiếm
tiền dễ hơn. Có tiền, mẹ lại có phương tiện cúng dường, bố thí…” Tôi im lặng
nghẹn ngào, chợt nhớ rằng mẹ chưa hề hỏi tôi một đồng xu nào và tôi quên bẵng
rằng mẹ cũng có nhu cầu tiêu xài. Trên thế gian này, không có nhân viên nào
làm việc cật lực mà không đòi hỏi thù lao như thế! Vô tình, tôi đã “đòi nợ”
mẹ tôi một cách tận tình. Dì tôi cũng có lý khi bà mỉa mai tôi. Trong lúc tôi
đăm chiêu, mẹ nhẹ nhàng tiếp: “Mẹ đã xin được chân rửa chén trong nhà hàng.
Rửa bằng máy chả cực nhọc gì!” “Trời đất ơi, rửa chén, cần sức lực của người
đàn ông Mễ mới kham nỗi. Nồi niêu son chảo to như cột đình, nặng như búa tạ,
làm sao mẹ nhấc cho nổi!” Tôi xuống giọng tiếp: “Mẹ nhìn lại mẹ xem. Tay mẹ
gầy yếu, lưng mẹ đã cong, bước đi không còn nhanh nhẹn. Dù họ cần người, mướn
tạm, vài hôm cũng cho nghỉ việc thôi!” Bấy
giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ mẹ. Bà già thật rồi, cái già đến nhanh quá. So với
hồi mới qua, bà như tăng thêm năm, bảy tuổi. Mẹ tôi cúi đầu xuống thấp. Hình
như bà cố giấu giọt lệ vừa ứa ra. Tôi nhẹ nâng cầm mẹ lên và nhìn sâu vào đôi
cửa sổ tâm hồn ấy. Trời ơi, mắt mẹ đã kéo mây! Đôi mắt bồ câu đen láy ngày
nào từng làm điên đảo các chàng trai cùng trang lứa, cột chân ba tôi vào tổ
ấm gia đình, giờ đã một phần ngả màu đục lờ như nước gạo vo. Tóc mẹ trắng bơ
phờ, đuôi mắt nhăn như rẻ quạt, vầng trán sạm đen vết đồi mồi… Tôi mủi lòng
xót xa. Hai mẹ con ôm nhau, nước mắt người này thấm ướt vai áo người kia. Tôi
nhỏ nhẹ: “Con không dám trái ý mẹ, nhưng mẹ rán chờ. Con hứa sẽ tìm công việc
nhẹ nhàng hợp với mẹ hơn, mẹ nhé! Vong hồn ba mà biết mẹ cực khổ thế này chắc
khó siêu.” Trời cũng thương tình. Đâu chừng một tháng sau thì bà lão làm rau
cải xin nghỉ việc về hưu. Mẹ tôi trở thành “bà cụ hàng rau”. Danh
xưng và chức vụ gắn liền với mẹ tôi từ đấy. Vậy mà bà vui. Mỗi tháng bà lãnh
được hơn ngàn bạc. Phân nửa số tiền, bà gửi về Việt Nam: phần cúng dường,
phần bố thí, phần giúp đỡ các em, các cháu. Số còn lại, bà dành dụm mấy kỳ
lương, đưa tôi hơn ngàn bạc. “Mẹ thấy người ta dựng phòng trong garage cũng
tiện lắm. Nếu chồng con không phiền, con lấy tiền này nhờ nó mua vật liệu,
che tạm cho mẹ một căn phòng nhỏ. Con Hoa, con út bắt đầu lớn, tụi nó cần sự
riêng tư. Mẹ cũng vậy, có phòng riêng mẹ sẽ dựng kệ thờ Phật, mỗi ngày mẹ có
thể lễ bái, tụng kinh, niệm Phật…” Chồng tôi nghe kể lại, vui vẻ đáp: “Chuyện
nhỏ! Mẹ muốn gì anh cũng xin vâng, nói chi việc ấy!” Từ đấy, mẹ lộ vẻ hoan hỉ
lắm. Sáng tối hai thời, ít khi nào bà bỏ lỡ công phu. Bà như một người đạt
được mục tiêu cho đời mình, không có gì để ưu tư, khắc khoải. Mùa
Đông năm ấy, thời tiết hơi khác thường. Ban ngày ấm áp xen kẽ với những đêm
buốt giá mà nhiệt độ đôi khi hạ thấp đến không ngờ. Vợ chồng tôi mời mẹ tạm
trở về phòng cũ vài ba tháng, ngoài garage lạnh quá dễ sinh bịnh. Mẹ nói: “Ở
chỗ này quen rồi, dời đi khó ngủ.” “Mẹ nhớ vặn heat cho đủ ấm nhé!” “Ờ, tao
biết mà!” Ngờ đâu mẹ đã không qua khỏi mùa Đông! Buổi sáng chẳng thấy mẹ dậy
sửa soạn để đi làm, tôi bảo “đứa nào ra đánh thức bà dậy, nhanh lên kẻo trễ!”
Con Hoa quấn mền đẩy cửa bước ra garage miệng kêu léo nhéo. “Ngoại ơi, ngoại
à…” Không có tiếng trả lời… Nọ bật đèn, tiến đến cạnh giường: ngoại quấn hai
cái mền kín mít, nằm im ỉm. Nó lắc chân ngoại, bà chẳng đáp. Nó lôi cái mền
xuống: mặt bà xám xịt, lạnh ngắt, đôi mắt khép hờ… “Mẹ ơi, mẹ! sao kỳ vầy
nè!” Cả nhà đổ xô ra. Chồng tôi đạo Chúa, vội làm dấu thánh giá… Tôi xỉu ngay
tại chỗ khi loáng thoáng nghe thằng Hùng la lên: “Sao bà không mở heat?” Cuộc
điều tra của cảnh sát quấy rầy chúng tôi một thời gian, cuối cùng họ kết
luận: “Bà cụ không thường mở heat; cái máy mua hai tháng về trước còn mới
tinh chưa hề được sử dụng!” Tôi như người mất hồn trong đám tang của mẹ. Sự
hối hận như lưỡi dao có răng, nó cưa xé lòng tôi. Trái tim tôi cơ hồ rỏ máu
thành những giọt lệ hồng. Bạn bè khuyên tôi nên đến chùa xin cúng thất, thiết
lễ cầu siêu cho bà. Tôi chẳng thể nói năng chi cùng vị sư ở chùa, chỉ biết
dập đầu lạy cầu cứu với đôi mắt sưng húp. Chồng tôi bình tĩnh hơn, anh buồn
bã kể đầu đuôi tự sự. Câu chuyện khiến thầy thương tâm, thầy thường an ủi,
khuyên giải sau những thời lễ cúng. Khi thấy tôi bắt đầu trở lại bình thường,
thầy dành cho gia đình chúng tôi một lời pháp thoại. Thầy giảng về lý vô
thường, khổ, không. Các con tôi tỏ ra thích thú với sự thật giản dị và sâu
sắc này, chúng đòi được học giáo lý đạo Phật thay vì đi nhà thờ với ba. Riêng
tôi, tôi nhớ mãi câu kết luận của thầy trong buổi nói chuyện ấy: “Con người
ta sở dĩ đau khổ triền miên là tại mình muốn nắm giữ! Cái gì cũng khư khư ôm
chặt. Làm sao giữ mãi được vì bản chất của chúng là vô thường, là không. Hãy
buông bỏ hết đi, chừng nào bỏ được, chừng ấy mới có chân hạnh phúc!” Phải
rồi, nếu chúng tôi không bám chặt vào căn nhà thì mẹ tôi đã không phải vất vả
đến thế, không đến nỗi chết cóng ngoài garage. Và gia đình tôi không lụy đến
mức này. Tôi thỏ thẻ bàn với chồng: “Anh à, căn nhà này mình không giữ nỗi
thì bán nó đi. Em tính rồi, sau khi thanh toán hết nợ nần mình cũng còn vài
trăm ngàn. Dọn sang Texas, nhà cửa rẻ hơn, mình có thể tậu căn khác hoặc là
giữ làm vốn, tính chuyện làm ăn…” ” Ờ nhỉ, hồi đó sao mình ngu quá, cứ ôm lấy
nó mà cắm cổ đi cày trả nợ. Liệu giữ không được thì sớm buông đi… Nhờ ông
thầy giảng dạy, mình mới sáng mắt ra!” Sau
khi dọn sang Texas, trước khi bắt tay vào công ăn việc làm, tôi đến quì dưới
chân sư ông kể lể hết sự tình, xin sám hối thì lòng tôi mới có thể yên. Sư
ông trầm ngâm và yên lặng nghe tôi vừa khóc rấm rức vừa kể về mẹ tôi, đệ tử
mà người rất quí mến. Sư ông không hề cắt ngang bằng những câu hỏi. Người
không phê phán gì, chỉ để yên cho tôi khóc, khóc oà vỡ như cái đập nước bị
ngăn chận, nay có người tháo ra… Mãi một lúc lâu lắm sau đó, sư ông mới dạy:
“Người mẹ nào cũng có trái tim Bồ Tát. Mẹ con hành Bồ Tát đạo ngay trong gia
đình trước khi mở rộng ra trong cuộc sống với mọi người. Con hãy hãnh diện có
bà mẹ như thế! Con sẽ không cảm thấy hối hận ray rứt nữa nếu con biết đi theo
hướng đi của mẹ con, biết xả bỏ cái tôi vị kỷ để lo cho người chung quanh.”
Tôi sụp xuống đảnh lễ người đã chỉ cho tôi tháo mở cái gút dây kết mối ân hận
trong tôi. Tôi
trở về Texas với sự bình yên và tâm nguyện cao cả… Nhưng khi mùa Vu Lan về,
cầm hoa trắng trên tay, tôi không thể ngăn được những giọt lệ hồng phát xuất
từ trái tim tôi… Than ôi! Khi tôi biết nghĩ tới mẹ, biết giá trị của trái tim
bồ tát, biết thương mẹ thì bà đã không còn nữa trên đời… Diêu Nga |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét