Danh sách Blog của Tôi

Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2018

Chúa Giêsu sinh ra trong một chuồng bò





Ngày mừng lễ Chúa Giáng Sinh đã gần kề. Chúng ta đã chuẩn bị tâm hồn và nhiều dự tính cho ngày lễ nầy. Đức Phanxicô mời gọi chúng ta: Đừng nặng nề về những vẻ hòa nhoáng của ngày lễ mà quên mất phần nội tâm, hãy dành thời gian đến viếng hang đá – giữ yên lặng – và bạn sẽ thấy nhiều điều gây ngạc nhiên: lời ca tụng, sự trao tặng, niềm vui cùng sự tha thứ.

Đến với hang Bêlem, chúng ta thấy toát lên sự thánh thiện, không phải là sự tinh sạch từ bên ngoài thủ đắc được do việc tuân giữ lề luật, nhưng là sự thiện tâm do việc từ bỏ ý mình để thuận theo ý Chúa trong mọi sự. Sự thánh thiện, ơn cứu rỗi và công chính của Kitô giáo hệ tại sự liên hệ với Thiên Chúa, được thực hiện qua Chúa Giêsu Kitô cùng với ân sủng của Chúa Thánh Thần.

Trong những ngày áp lễ (17/12 - 24/12) các bài đọc nêu lên cho chúng ta những việc thiết yếu của việc mừng lễ CHÚA GIÁNG SINH.
Tin hay không tin: Những người nghèo của Giavê, trong đó có Mẹ Maria và Thánh Giuse đã dễ tin và mau mắn thi hành ý Chúa; còn ông Giacaria đã nghi ngờ lời thiên thần báo tin việc Thánh Gioan sinh ra nên ông bị phạt. Con người chúng ta thường lãng quên tình Chúa và không vững tin rằng Chúa yêu mình, Chúa sống với mình, Chúa ban ơn Thánh cho mình… nên họ đã phạm tội nhiều. Nhiều người mất linh hồn vì không giữ vững niềm tin cho đến khi Chúa đến. Mỗi ngày hãy xin ơn đức tin cho mình và cho tha nhân.
Ra đi. Mẹ Maria đã ra đi đến với bà Elizabet, để chia sẻ niềm vui, để thực hiện sự quan tâm và để mang Chúa đến cho người chị là người nghèo. Hãy đi và làm như Mẹ, gặp gỡ những người đang bất hòa với ta, hãy yêu thương vô điều kiện như Chúa đã làm cho ta.
Những bài ca: Phụng vụ cho chúng ta nghe những bài ca tụng của thiên sứ Gabriel, của Mẹ Maria, của bà Êlizabet, của ông Giacaria và rồi của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh … Mỗi ngày, mỗi người chúng ta hãy ca lên bài ca của chính mình. Ai đó đã nói: ‘người đang yêu thường hay ca hát’ hoặc ‘đang ca hát là đang yêu đời’. Hãy nhớ lại lịch sử đời minh để nghiệm ra tình yêu Chúa, còn khi không có bài ca đặc biệt thì hãy ca theo lời kinh dọn sẵn: kinh đội ơn và kinh cám ơn. Tạ ơn là tâm tình rất đẹp lòng Chúa.
Sự trao ban. Con Thiên Chúa đã thể hiện sự tự hủy tuyệt đối khi nhập thể làm người, khi sinh ra trong hình hài một trẻ thơ yếu ớt, trong một chuồng bò thiếu thốn và giá lạnh, một gia đình vô danh và một đất nước nô lệ. Chúa muốn tôi trao ban chính bản thân mình để phục vụ anh em cách nào đó. Chẳng ai là không có gì để cho người khác, có chăng là người đó chôn vùi nén bạc và chọn lối sống vị kỷ: tích góp và hưởng thụ.

Và hôm nay, đến viếng bất cứ hang đá nào, điều ngạc nhiên đầu tiên là chuồng bò đơn sơ đã trở nên lộng lẫy nhờ sự hiện diện của Ngôi Lời Thiên Chúa. Cùng với Ngài là sự thánh thiện, bình an và niềm vui ơn cứu rỗi. Mỗi cảnh vực cuộc sống, dù ở đất nước văn minh hay lạc hậu, đều mang dáng vẻ của một chuồng bò tăm tối, nhưng nó sẽ được biến đổi nếu có ánh sáng Chúa Kitô soi chiếu. Điều đáng buồn là “Người đến nhà của Ngài, nhưng gia nhân không đón nhận Ngài”. Nếu tôi nói về đạo Công Giáo cho một người lương dân thì họ cũng chỉ cho đó là một lý thuyết đạo đức giống như bao đạo khác: cũng có những tình tiết đầu thai của các vị thần để sinh ra vị sáng lập ra tôn giáo, cũng có những chuyện ly kì như phép lạ, cũng có những giáo lý giúp chúng sinh đạt được ơn giải thoát, cũng có những kiếp nạn sau cái chết (hỏa ngục và luyện ngục) và cũng có cảnh bồng lai nơi thiên giới (thiên đàng).Chính sự lẫn lộn giữa thật và giả cũng là một mưu chước của satan khiến người ta ngại tìm hiểu và lầm lạc trên con đường tìm kiếm chân lý.

Để đến với Chân lý vĩnh cửu, để có thể bước vào hang đá Bêlem, con người phải biết cúi mình xuống. Và để có thể cảm nghiệm được những điều kỳ diệu Chúa thực hiện nơi mình, ta phải biết quỳ gối trước Hài Nhi Giêsu và giữ lặng yên. Amen.

Thứ Bảy, 8 tháng 12, 2018

Hình xăm




Nhiều người có hình xăm trên mình. Người ta xăm hình vì muốn thể hiện cá tính, vì sự rủ rê của bạn bè hoặc trong một phút bốc đồng vì quá yêu hay quá thù hận. Việc tẩy hình xăm còn đau đớn và khó khăn hơn là khi xăm hình. Đó là một thực tế cuộc sống.Tôi muốn dùng khái niệm ‘hình xăm’ để nói về một thực tại tâm linh, đó là dấu vết của tội nguyên tổ trên bản tính con người.

Trọng tâm của mùa vọng là chuẩn bị tâm hồn để đón nhận việc Chúa ngự đến. Ngồi xét mình lại, tôi thấy nổi cộm lên một tội rất khó chừa: ghen ghét, thù hận. Nếu dựa vào thuyết nhà phật, tham sân si, thì không thấy rõ tội nầy. Nếu dựa vào bản liệt kê của Thánh Gioan Tông Đồ, đam mê của con mắt – đam mê của xác thịt – và lòng kiêu hãnh về của cải, thì cũng không thấy bóng dáng của tội nầy. Nhưng nếu đọc lại ‘cải tội bảy mối’ thì mới thấy 3 dấu vết của tội ghen ghét: khiêm nhường chớ kiêu ngạo, hay nhịn chớ hờn giận và yêu người chớ ghen ghét. Cain đã giết Abel vì lòng ghen ghét.

Chúa Giêsu đã nhập thể làm người, đã chết và đã sống lại, vì yêu thương con người. Công trình ‘tái tạo dựng’ của Con Thiên Chúa còn tuyệt vời hơn công trình tạo dựng thuở ban đầu rất nhiều: chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và là anh em với nhau. Thế nhưng dấu ấn của sự ghen ghét còn ảnh hưởng nghiêm trọng trên tình vợ chồng, cha mẹ, anh em ruột thịt và tha nhân. Hằng ngày mỗi người phải chiến đấu với lòng ghen ghét, chia rẽ, thù hận luôn sẵn sàng nổi dậy bất cứ lúc nào, lúc nhẹ lúc mạnh như sóng đại dương. Trí nhớ ta luôn lưu trữ chính xác những lời ‘người kia’ lỡ thốt ra dù chỉ một lần, ta thường ôn lại những cách xử tệ để đề đưa ra một kế sách cho tương lai, và thế là sự ghen ghét ngập tràn cuộc sống.

Nếu ta khiêm nhường nhìn nhận ra sự yếu hèn và hay sa ngã của chính mình, đã phạm tội rất nhiều và còn phạm tội nhiều trong tương lai, thì có lẽ ta không mạnh mẽ ném đá anh em. Nếu tôi học tính hay nhẫn nhịn và yêu người giống như Thiên Chúa vẫn nhẫn nại với con người, giống như Chúa Giêsu đã lặng yên trên thập giá, đã thưa lên với Chúa Cha xin tha cho kẻ làm khốn mình ... thì có lẽ tôi sẽ không quá cứng cỏi với anh em.

Nếu chỉ dựa vào sức mình thì những cơn sóng dữ còn xô đẩy lòng giận ghét anh em nổi lên hoài hoài, con người còn phải cậy nhờ ơn Thánh Chúa trợ giúp: “Thầy ơi, xin cứu con với kẻo nguy mất”. Hãy ý thức rằng: tôi cũng là kẻ yếu đuối và có tội, đã được Chúa tha thứ và thương xót rất nhiều để rồi tôi cũng thương xót anh em, vì khi đến trình diện Chúa chúng ta sẽ bị xét xử về tình yêu.

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2018

Đi tu vì thất tình?




Như chúng ta đã nhận được thông tin: Cách đây 25 năm (03.12.1993), giáo phận Banmêthuột hân hoan tạ ơn Thiên Chúa đã trao ban hồng ân linh mục cho 4 tân chức. Cha Giuse Bùi Công Chính và cha Giuse Nguyễn Văn Khánh mừng lễ tạ ơn ngày 03.12.2018, cha JB Hà Văn Ánh mừng lễ vào ngày lễ Mẹ Vô Nhiễm (8.12.2018), còn cha Phêrô Trương Văn Khoa đã lìa thế. Xin ghi lại vài tâm tình cha Giuse Nguyễn Văn Khánh đã giảng trong lễ tạ ơn Ngân Khánh Linh Mục của mình.

Có một nhà sư bước lên một chuyến xe đường dài, người ta xếp cho ông ngồi ở hàng ghế đầu vì tôn trọng bậc tu hành. Trên chuyến xe đó cũng có một nhóm bạn trẻ nam nữ đang trên đường đi du lịch, chúng nói huyên thuyên về đủ loại đề tài và dĩ nhiên nhà sư đẹp trai ngồi phía trước cũng lọt vào tầm ngắm của những câu chuyện được bàn tán. Có đứa nói: nhà sư đẹp trai và khôi ngô như vậy mà đi tu thì thật là uổng phí và không hợp tình. Đứa khác lại nói: lý do đi tu như trong trường hợp nầy thì chỉ có vì thất tình. Đứa khác đưa ra ý kiến khác: cũng có thể người ta có lý tưởng cao đẹp nên mới chọn đời sống độc thân. Và giữa chúng phân chia thành hai nhóm bất đồng ý kiến: nhà sư đi tu vì thất tình hay vì lý tưởng nào khác?
Chúng cá độ với nhau: nhóm nào thua thì phải bao một bữa ăn. Chúng cử hai cô gái nhanh miệng lên gặp nhà sư để tim hiểu sự tình. Một cô gái hỏi: Bạch thầy, xin phép hỏi thầy một vài điều có được không?- Thí chủ cứ hỏi. - Có phải nhà tu hành thì không bao giờ nói dối? – A di mô đà Phật, đúng vậy. -Vậy, có phải vì thất tình mà Thầy đi tu? -Đúng vậy. Cô gái kia mới hỏi: "Vậy cô gái ấy phải rất cao cơ mới làm cho thầy thất tình?" – "Không có cô nào đá đít thầy cả, thực ra người ta thất tình là đánh mất những tình yêu cao quý như tình mẹ cha, tình huynh đệ, tình bạn bè, làng xóm, đồng bào… vì lòng tham lam ích kỷ của bản thân nên họ trở nên mù quáng. Thầy đi tu là để thoát tục, giải phóng mình khỏi vòng tục lụy, mới mong tìm lại được những mối tình đã đánh mất và giúp cho chúng sinh tìm được con đường giải thoát khỏi những tham sân si là những thứ làm cho họ thất tình".

Người Kitô hữu được mời gọi từ bỏ chính mình để bước theo Chúa Kitô, nghĩa là trở nên giống như Ngài: tâm tư, lời nói và hành động. Người tín hữu có chức tư tế cộng đồng, họ được mời gọi hiến dâng chính mình mỗi ngày, trở nên của lễ sống động và đẹp lòng Thiên Chúa. Người lãnh bí tích truyền chức được mời gọi theo Chúa Giêsu linh mục một cách gần gũi và triệt để hơn, dù con người linh mục vẫn mang những yếu đuối của phận người, như viên ngọc được chứa đựng trong bình sành dễ vỡ. Tuy Chúa Giêsu đã đổ máu ra để ban lại sự công chính cho muôn người, nhưng dấu vết của tội nguyên tổ vẫn còn mãi trong bản tính con người, nên mỗi ngày sống là một cuộc chiến đấu để từ bỏ những thất tình để sống thủy chung với Thiên Chúa và anh em mình.Người tín hữu được mời gọi đến với Chúa Giêsu là đường là sự thật và là sự sống và chính Ngài ban sức mạnh giúp ta thắng vượt những dục tình để sống xứng đáng là con cái Chúa và là anh em với nhau.

Có người hỏi tôi (cha Giuse) làm linh mục khó nhất là gì, có phải là giảng dạy?- Tôi nghĩ rằng giảng hay làm bí tích cũng khó nhưng chưa thật sự khó, vì có những ‘linh mục giả’ cũng làm được những việc ấy trong một thời gian dài mà không bị phát hiện. Cái khó nhất của linh mục là đọc lời Truyền Phép: “Này là Mình Ta bị nộp vì các con, Này là Máu Ta đổ ra vì các con”. Cái khó ở đây là trở nên của lễ sống động dâng lên Thiên Chúa, vì phần rỗi anh em, là làm cho Lời Truyền Phép được thực hiện nơi bản thân mình mỗi ngày cho đến trọn đời.

Mừng lễ ngân khánh linh mục có hai tâm tình: xin lỗi Chúa và anh em vì chưa tốt đủ và chưa thánh đủ; tạ ơn Chúa và tạ ơn người vì muôn ơn lành và sự cộng tác giúp đỡ cho ơn gọi phát triển và trong công việc mục vụ. Xin mọi người nhớ cầu nguyện cho các linh mục, vì Chúa ban cho ai nhiều thì Chúa cũng đòi lại họ nhiều hơn. Amen.

Thứ Ba, 13 tháng 11, 2018

ĐƯNG LÊN ÁN ĐỂ KHỎI BỊ LÊN ÁN



Trong năm 2014, Đức Phanxicô có bài nói chuyện liệt kê 14 căn bệnh của giáo triều Roma rất nổi tiếng. Ngài còn nói thêm: Đó cũng là những căn bệnh và cám dỗ của mọi Kitô hữu. Tôi muốn nói một chút về căn bệnh có lẽ là phổ biến nhất của người giáo dân là việc lên án anh em và bàn chuyện bề trên.

Nếu bạn chỉ tay vào người khác thì 3 ngón còn lại chỉ thẳng vào bạn. Nếu bạn không kiêu ngạo thì không khó chịu vì sự kiêu ngạo của người khác. Bạn bực mình vì không chừa được một thói xấu nào đó, nên khi thấy người khác cũng giống bạn thì bạn mạnh mẽ lên án họ, để che lấp đi cái xấu của mình. Nếu bạn không ích kỷ thì không khó chịu vì sự ích kỷ của người khác. Nếu bạn thường chê cha xứ giảng không hay hoặc nói không đúng thì bạn đang ghen tị với ngài vể sự kính trọng và bạn muốn khoe tài nghệ của bạn, muốn chứng tỏ mình cũng là một ‘nhân vật, someone’ ). Tật nói xấu và lên án người khác là tấm gương phản chiếu của chính nội tâm bạn, tựa như trò chơi xấu đã bị lật tẩy vậy.

Khi bạn nói xấu ai, bạn tự dựng nên một bức tường ngăn cách giữa 2 người. Càng nói xấu người khác, bạn càng thấy cô đơn. Người nói xấu người khác là tự làm mất giá trị và nhân cách của chính mình, và người hay nịnh hót kẻ có mặt, thì cũng hay chê bai khi vắng mặt người.


Lời Chúa nói: “Đừng lên án để khỏi bị lên án. Các ngươi đong bằng đấu nào thì sẽ bị đong lại bằng đấu ấy”.

Tôi nhớ lại một vài câu chuyện: Lúc đương thời Đức cha Giuse Trịnh Chính Trực không khoe mình và cũng chẳng nặng lời kết án ai, đúng là bậc vĩ nhân; vua Đavit lúc bị con mình là Absalon truy đuổi, có một thường dân xỉ vả nhà vua thậm tệ, các cận vệ xin vua cho giết quách đứa lộng ngôn đó, nhưng nhà vua bảo: “Chính Chúa sai nó nói những lời đó”. Nhà vua nuốt nỗi nhục vào lòng như cơ hội đền tội. Cha Phaolô Nguyễn Công Minh vẫn thường nói: sắc đẹp thì mau qua, danh vọng thì hão huyền. Bởi vậy bạn đừng chao đảo khi bị người đời chê bai, vì đây là cơ hội tốt để nghiệm ra sự phù phiếm của trần gian và học cậy dựa vào Chúa là Đấng muôn đời thủy chung.

Biết bao nhiêu vị thánh, lúc đương thời, đã phải chịu tiếng oan rất xấu xa và thậm chí là bị giam lỏng. Các vị đó không đánh mất sự bình an, đã vui lòng chấp nhận tiếng xấu như cơ hội thanh luyện bản thân và chìm sâu trong cầu nguyện. Đan cử là Thánh Vianey và Thánh Pio được in 5 dấu. Thánh Vianey bị các linh mục viết đơn tố cáo lên bề trên về sự kém cỏi thần học mà dám giải tội cho đủ hạng người, còn cha Thánh Piô thì đã nhiều lần bị bề trên cấm tiếp xúc với giáo dân. Chính Chúa Giêsu, dầu là Con Thiên Chúa, còn bị vu cáo là quỷ ám và lộng ngôn đáng ‘đóng đinh vào thập giá’. Thế thì bạn và tôi là ai mà đáng cho người đời kính trọng!

Ấy vậy mà ta thường khó chịu và mất an bình khi bị ai đó chê, chửi và coi thường; ta thường nóng nảy phát biểu những lời thiếu khôn ngoan, vì lúc đó cái lưỡi làm việc nhanh hơn cái đầu. Đó là vì tự ái của ta còn quá lớn và ta chưa học bài học khiêm nhường và hiền từ của Chúa Giêsu: Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã bỏ cõi trời, mặc phận hèn nhân loại như chúng ta mọi đàng, Ngài sống nghèo và vô danh, Ngài đã chết cô đơn và đớn đau như một tên tội phạm… vì tội nhân loại. Khi bị nói xấu, hãy sống thế nào để không ai tin vào lời nói xấu đó.


Xin Chúa đừng để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Xin cho chúng con vui lòng chịu mọi sự sỉ nhục vì lòng yêu Chúa và như một cơ hội học đức khiêm nhường là nền tảng các nhân đức, vì như Đức Phanxicô nói: ‘người ta không thể học được đức khiêm nhường nếu không bị sỉ nhục’. Hãy luôn cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để Ngài giúp bạn biết gìn giữ miệng lưỡi: không nóng giận, không khoe khoang và không nói xấu.



Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2018

Hai bà góa




Bà góa người Sidon đã nghe theo lời của tiên tri Êlia, với một chút bột và dầu cuối cùng, bà đã dâng cho vị tiên tri một chiếc bánh, và phép lạ đã xảy ra là cả gia đình bà cùng với vị tiên tri đã sống qua nạn đói. Có thể nói : bà thật may mắn vì được vị tiên tri chiếu cố đến, nhưng cũng thật đáng khen cho lòng quảng đại của bà nên phép lạ đã xảy ra mỗi ngày. Còn bà góa trong Tin Mừng đã bỏ vào đền thờ 2 đồng tiền kẽm, số tiền rất nhỏ nhưng tấm lòng lại rất lớn. Chúa Giêsu, Đấng nhìn thấu tâm can con người đã nói: người đàn bà nầy đã dâng cúng nhiều hơn hết.
Tư tưởng và cách đánh giá của Chúa thật khác xa cách nhìn của con người, vì Chúa nhìn thấu tâm hồn, trong lúc con người chỉ nhìn thấy vẻ bên ngoài mà thôi. Chúa không lấy làm quan trọng việc tẩy rửa bên ngoài cho bằng tinh sạch tâm hồn. Chúa chê những người biệt phái trọng nghi lễ thờ phượng mà bỏ quên lòng nhân nghĩa và bổn phận thảo hiếu. Chúa lên án thói giả hình và phô trương công đức vì ‘họ đã được trả công rồi’. Chúa mời gọi ta học với Chúa bài học hiền lành và khiêm nhường trong lòng, làm mọi việc vì yêu mến Chúa, biết phó thác vận mệnh mình cho Thiên Chúa định liệu. Mẹ Maria là tạo vật kỳ diệu vì đã biết trở nên ‘nữ tì’ của Chúa, mặc Chúa định liệu về tương lai cuộc đời. Mẹ không lo lắng đến việc cắt nghĩa cho ‘vị hôn phu’ về việc nhập thể của Con Thiên Chúa là chuyện rất phức tạp… và Chúa đã lo liệu mọi sự rất tốt đẹp cho cuộc đời nơi dương thế của Mẹ. Đến lúc gặp lại Con trên đường vác thập giá, Mẹ vẫn bình tĩnh mà không kêu gào hay bị ngất xỉu, vì Mẹ đã học bài học vâng theo ý Chúa trong suốt cuộc đời.

Thánh Luca nói với các môn đệ phải coi chừng thói hư danh của các kinh sư và liền đó là nhận xét của Chúa về giá trị của 2 đồng tiền kẽm bà góa nghèo đã bỏ vào hòm tiền: bà đã dâng cho Chúa trọn tấm lòng để hoàn toàn phó thác cho Chúa định  liệu. Chúng ta liên tưởng tới linh đạo Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã đề ra: làm những việc bình thường nhưng với tình yêu phi thường. Chắc chắn những hoa trái của những hy sinh và lời cầu nguyện của Thánh nữ rất dồi dào phong phú nên Giáo hội mới phong Ngài là bổn mạng các xứ truyền giáo.

Trong Tin Mừng Luca 4,25 có kể lại một sự kiện đó là Chúa Giêsu trở về thăm quê hương, nhưng ở đó Chúa không thể làm phép lạ nào đáng kể vì họ cứng lòng tin. Chúa nói với họ: thời tiên tri Êlia, ở Israel có rất nhiều bà góa, nhưng chỉ có bà góa nghèo ở Sarepta vùng Sidon được vị tiên tri viếng thăm. Chắc hẳn không phải vì tình cờ, nhưng vì bà này có lòng quảng đại và một lòng tin vào lời nói của vị tiên tri; và thời tiên tri Êlysa chỉ có Naaman người Syri được chữa khỏi bệnh phong cùi, trong lúc ở Israel có biết bao nhiêu bệnh nhân phong mà không được chữa lành chỉ vì họ không tin.

Bài học hôm nay Chúa muốn dạy ta là gì? – Chúa không bảo mọi người dâng hết của cải để xây dựng Giáo hội, nhưng là dâng trọn tấm lòng để thuộc trọn về Chúa, sống đẹp lòng Đức Chúa Trời và miệt mài tiến lên trên con đường nhân đức, biết làm mọi việc vì lòng yêu mến Chúa. Sự liên lỷ dâng hiến và phó thác nầy là kết quả của lòng tin và lòng mến dành Cho Thiên Chúa là ‘đầu cội rễ mọi sự cùng là sau hết mọi loài”.

Thứ Bảy, 3 tháng 11, 2018

HAI MẶT CỦA MỘT ĐỒNG TIỀN





Một người trong các kinh sư đặt ra một câu hỏi giáo lý rất hay ‘Giới răn nào trọng nhất?’ và Chúa Giêsu đã đưa ra một đáp án vừa chính xác vừa ngắn gọn: “Giới răn trọng nhất là hãy mến Chúa hết lòng và yêu tha nhân như chính mình”.Giáo lý Chúa dạy quá rõ ràng, không ai còn bàn cãi làm gì, nhưng vấn đề khó là đem ra thực hành.

Tôi được mời ăn tiệc mừng ‘rửa tội’, có người nêu lên một vấn nạn: “Tại sao không để cháu đủ 18 tuổi và tự quyết định về vấn đề đức tin”. Có lẽ chủ ý của người có đạo nầy chỉ là nói cho vui, nhưng đây là một quan niệm của người ngoại giáo. Trong quyển sách ‘Tây Dương Giatô bí lục’ có mô tả việc trẻ em được đưa đến nhà thờ để các ‘cố đạo’ làm nghi thức bùa yểm, bôi trét những thứ ‘gì đó’ để làm cho tâm trí bị u mê đần độn, việc làm mờ ám và mang tính dị đoan nầy còn được tái diễn nhiều lần trong suốt cuộc đời của họ đã kìm giữ họ trong sự ngu muội tâm trí… họ trở nên thụ động cho bọn tay sai đế quốc và là nô lệ cho chủ nghĩa ‘giáo sĩ trị’. Để trả lời cho câu nói đùa trên, tôi chỉ trích lại câu trả lời của một vị mục tử: “Vấn đề rửa tội cho trẻ em không phải là tước mất tự do của con cái, vì khi con trẻ còn nhỏ thì không thể tự quyết nhiều thứ như: học trường nào và chữa bệnh ở đâu… Nhiệm vụ của cha mẹ là nuôi dưỡng, bảo vệ, dạy dỗ chúng những điều gì tốt cho chúng và tránh những điều nguy hại. Nếu cha mẹ nhận biết rằng Thiên Chúa là Chúa duy nhất và đức tin còn quý hơn một kho tàng thì tại sao còn chần chừ mà không cho con mình gia nhập Hội Thánh?”

Nói đến tự do, chúng ta liên tưởng đến câu nói thời danh của Thánh Augustinô: Khi dựng nên con, Chúa không cần hỏi ý con; nhưng để cứu chuộc con, Chúa cần sự cộng tác của con. Sự cộng tác ở đây là nói đến sự tự do quyết định làm lành lánh dữ. Khi nói về mầu nhiệm Chúa quan phòng, có một vấn nạn được nêu lên: “Chúa biết một người sẽ làm điều dữ, Chúa biết ông Giuđa sẽ phản bội, tại sao lại còn dựng nên họ và tại sao lại không ngăn cản? – Vì tôn trọng tự do của con người. Thử nhìn lại lịch sử dân Do Thái, chúng ta nhận ra rằng: Thiên Chúa tôn trọng tự do con người, nghĩa là họ tự do quyết định thờ Chúa hay bỏ Chúa; tuy nhiên Chúa vẫn không bỏ mặc họ phát triển như một cây hoang mà Chúa dạy dỗ họ, dìu dắt họ và cả trừng phạt họ… để dẫn họ về đường lành. Trở lại vấn đề con cái và đức tin cũng vậy: chúng ta có nhiệm vụ nói với con cái về ‘đường lành, về việc thờ phượng Chúa và bước đi trong lề luật Chúa’ như một sự thiện vĩ đại nhất trên trần gian nầy, là tiêu chuẩn chính để đánh giá sự thành công và hạnh phúc của một đời người.

Yêu mến Chúa và giữ luật Chúa là hai mặt của một đồng tiền. Trong CƯ, dân Do Thái đã được Thiên Chúa ban lề luật và ký kết giao ước tại núi Sinai: Dân Israel tôn thờ Một Chúa Duy Nhất và Chúa sẽ bảo vệ dân. Đây là hai vế của một giao ước. Thiên Chúa chưa bao giờ thất hứa nhưng dân Israel đã nhiều lần bội phản khi họ chạy theo các thần ngoại bang và Thiên Chúa đã kiên nhẫn với họ như người chồng phải chịu đựng một người vợ lăng loàn. Có một chuyện đáng nhắc lại ở đây: Dân Do Thái có hòm bia giao ước như một bảo chứng rằng Thiên Chúa hiện diện giữa họ, một ngày kia họ giao chiến với dân ngoại, họ cứ tưởng như mọi lần rằng Chúa sẽ bảo vệ họ và ra tay tiêu diệt quân thù, nhưng lần nầy thì Chúa đã bỏ rơi họ, vì họ đã sống như dân ngoại: cả việc thờ ngẫu tượng và bất tuân lề luật. Dân Do Thái bị quân địch đánh cho tơi bời và Hòm Giao Ước cũng bị mất. Dấu ấn của bí tích rửa tội làm cho ta trở thành con cái Chúa, nhưng đó không phải là ‘thẻ’ để vào nước trời, coi chừng có kẻ phải nghe lời chúc dữ: “Ta không biết các ngươi là ai!”, vì Chúa Giêsu đã nói rõ ràng: ‘ai yêu mến Thầy thì tuân giữ Lời Thầy’.

Yêu mến Chúa và yêu tha nhân cũng là hai mặt của một đồng tiền. Tôi không rành về tiền, nhưng tôi cũng mạn phép nói về nó một chút. Trên mỗi mặt của một đồng tiền có những họa tiết trang trí và những họa tiết ấn tín (phân biệt tiền giả hay tiền thật). Có lẽ đồng tiền kẽm chỉ có họa tiết trang trí, không sợ bị giả vì nó là đồng tiền nhỏ, nhưng nếu một mặt bị mài nhẵn hết họa tiết thì nó cũng trở thành đồng tiền mất giá trị. Còn nếu một mặt của đồng tiền giấy bị tẩy trắng hay bôi đen thì đồng tiền nầy cũng trở nên vô dụng. Đây là một hình ảnh minh họa lời nói của Thánh Gioan Tông Đồ: “Nếu ai nói mình yêu Chúa mà lại ghét anh em mình, thì nó là kẻ nói dối” .

Có những người chủ trương xây dựng một thiên đàng ở trần gian này chỉ nhờ vào lý trí và ý chí của con người: Luật pháp nghiêm minh bảo đảm sự bình đẳng mọi người, sự thịnh vượng sẽ đảm bảo không còn người nghèo và cung cấp mọi nhu cầu như an sinh giáo dục và y tế,  lý trí sẽ hướng dẫn ‘mình vì mọi người và mọi người vì mình, sẽ không còn cảnh người bóc lột người… Tự trong bản thân mỗi người, ai trong chúng ta cũng nhận ra rằng lòng ích kỷ tham lam của con người sẽ tiêu diệt mơ ước ‘một thiên đàng hạ giới’. Chỉ có Chúa Giêsu là Đường đã dạy ta hai giới răn trọng nhất là mến Chúa và yêu người và cũng chỉ có Ngài là Đấng Cứu Độ luôn ban ơn Thánh giúp ta tiến bước trên con đường nên thánh, hướng về thành đô Giêrusalem trên trời… Tự sức mình, tôi và bạn chẳng làm nên công trạng nào đáng kể.

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2018

TA ĐÃ THẤY GÌ?



Bài đọc trích thư Ephesô 5,21-33 (Thứ tư tuần 30 TN) mô tả một linh đạo cho đời  sống gia đình, nhưng dường như hơi lạc điệu với suy nghĩ của con người hiện đại. Trong cuộc sống đời thường, chúng ta chứng kiến nhiều người trải qua thảm cảnh gia đình, không bút nào tả xiết.

Thánh Phaolô nói :
Thưa anh em, vì lòng kính sợ Đức Kitô, anh em hãy tùng phục lẫn nhau.
Người làm vợ hãy tùng phục chồng như tùng phục Chúa, vì chồng là đầu của vợ, cũng giống như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh.
Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chinh Đức Kitô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh.
Vậy người làm chồng hãy yêu vợ như chinh minh, còn vợ thì hãy kinh sợ chồng.

Lời khuyên của Thánh Phaolô tưởng chừng như đơn giản và đẹp như một áng thơ: “chồng hãy yêu thương vợ như Đức Kitô yêu Hội Thánh, vợ hãy kính sợ chồng (tùng phục chồng trong mọi sự)”. Nhưng nếu các gia đinh Kitô hữu sống được những lời trên, thì sẽ có muôn muôn cặp gia đình được phong thánh và có lẽ nhân loại đã trở lại đạo hết mà không cần đến các nhà truyền giáo!
Nhưng thực trạng các gia đình lại khác xa những lời khuyên của Thánh Phaolô. Trong thế giới hiện đại, sự chung thủy trong hôn nhân cũng là một thách thức lớn, đến độ các thiệp cưới bây giờ, người ta rất ngại ghi câu Kinh Thánh: “Điều gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”, và thay vào câu khác nhẹ nhàng hơn: “Nguyện Chúa chúc phúc cho tình yêu của chúng con, hôm nay và mãi mãi”. 

Tôi đã thấy những người chồng vợ mất sớm, chán chường cuộc sống, thường rơi vào thói nghiện rượu. Tôi đã thấy những người vợ bị chồng đánh cho bầm mặt mũi vì không cung cấp tiền cho mình đánh bạc. Tôi tự hỏi: tại sao họ chấp nhận bị hành hạ mà không kêu cầu luật pháp trừng trị chồng mình? – Có lẽ là vì nghĩ đến con cái và vẫn nuôi hy vọng chồng mình thay đổi. Tôi đã thấy những người chồng bị vợ bỏ để chạy theo một mối tình khác, để lại một gia đình tan tác và những đứa con lạc lõng. Tôi vẫn thường nghĩ: thật là một đại họa cho người bị vợ hay chồng bỏ, một gánh nặng thể lý và tổn thương tâm lý.

Nhìn những cảnh gia đinh tan vỡ, nhiều người đưa ra một kết luận: vợ chồng muốn hòa thuận thì phải biết chịu đựng nhau, vì ai cũng có tật này tật nọ. Còn Thánh Phaolô, chỉ trong một đoạn văn thôi, Ngài đã dùng đến 2 lần chữ ‘kính sợ’: “Vì lòng kính sợ Chúa, vợ chồng hãy tùng phục lẫn nhau; vợ hãy kính sợ chồng”.  Kính sợ thì khác với sợ hãi. Khi nói về nhân đức thờ phượng, Chúa dạy chúng ta phải ‘kính sợ Đức Chúa Trời’ chứ không phải là ‘sợ hãi Ngài’. Sự kính sợ mang yếu tố tự nguyện và tôn kính, còn sợ hãi mang yếu tố bị ép buộc và thụ động. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta thường dùng bạo lực để dọa nạt nhau và làm cho nhau sợ hãi, ngay cả trong gia đình.

Thánh Phaolô dạy: VÌ LÒNG KÍNH SỢ ĐỨC KITÔ, VỢ CHỒNG HÃY TÙNG PHỤC LẪN NHAU. Thánh nhân không muốn nói đến trật tự và cách vận hành của gia đình mà muốn nói đến  một con đường nên thánh của gia đình Kitô hữu là HÃY SỐNG THEO LỜI DẠY CỦA TIN MỪNG VÀ THEO SỰ THÚC ĐẨY CỦA THẦN KHÍ. Nói cách khác, mỗi người hãy điều chỉnh đời mình để thực hành các nhân đức Kitô giáo như: công bình, bác ái, tha thứ, nhẫn nhục, khiêm tốn, tôn trọng sự thật … thì bỗng dưng gia đinh êm ấm. Còn nếu một trong hai người rơi vào đam mê tội lỗi nào đó như ngoại tình, dối trá, cờ bạc, nghiện ngập, đua đòi … thì làm gì còn sự kính trọng và tuân phục (Submit) lẫn nhau nữa.

Khi chứng kiến sự tan rã của các gia đinh, người ta thường nêu lên những lý do: thời gian tìm hiểu không kỹ và học giáo lý sơ sài, không có kỹ năng sống … nên nảy sinh ‘những bất đồng không thể hàn gắn’. Những chuẩn bị cho các bạn trẻ là rất cần thiết và cũng tránh được nhiều cuộc tình đổ vỡ. Nhưng lý do thực sự gây nên sự đổ vỡ của các gia đình là 'lòng đạo bị sa sút', là do một trong hai người hoặc cả hai người đã biến chất, sống theo lối sống ích kỷ của mình nên gạt phăng người kia ra khỏi vòng tay yêu thương. Lòng kính sợ Chúa được hiểu nôm na là lòng tin, lòng cậy và lòng mến, là việc việc tuân giữ Lời Chúa. Thực ra chẳng ai dò được lòng người, dù có tìm hiểu kỹ bao nhiêu, vì cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình hơn là một thực tại tĩnh để ta chọn lựa. Thử nhìn lại cuộc sống hôn nhân của những bậc cha ông chúng ta ngày xưa: cha mẹ dàn xếp cả, vậy mà cứ sống với nhau đến đầu bạc răng long! Tất cả là vì họ có lòng đạo đức, yêu mến Chúa và yêu tha nhân như chính mình.

Vậy nên, ĐẦU MỐI KHÔN NGOAN LÀ LÒNG KÍNH SỢ ĐỨC CHÚA TRỜI. Vợ chồng hãy khuyến khích nhau sống đạo: đạo trong nhà thờ và đạo trong cuộc đời. Hãy điều chỉnh những khuynh hướng ngoại giáo đang len lỏi vào những câu chuyện được bàn luận trong gia đình và hãy tập cầu  nguyện chung với nhau. Và một điều nữa cũng rất quan trọng là vợ chồng hãy luôn cầu nguyện cho nhau: biết bằng lòng với cuộc sống, biết đón nhận nhau và biết nỗ lực tìm kiếm sự trọn lành.

Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018

Mùa thu nói gì?




Trời đã vào cuối thu và đi vào mùa đông (mùa Đông Hà nội được kể từ tháng 11 đến hết tháng 1), trời se lạnh vào buổi sáng và lúc đêm về, trời chỉ hửng nắng ấm vào buổi trưa. Tôi chỉ mượn một vài cảm xúc về thời tiết của mùa thu đất trời để nói về mùa thu cuộc đời mà nhiều người đang trải qua.

Có một câu chuyện kể rằng: Thượng Đế đã sáng tạo nên muôn loài muôn vật và giữa chúng có một sự hỗ tương lẫn nhau. Ngài ban cho con người với 20 năm sống trên đời để vui hưởng cuộc sống. Ngài ban cho con trâu 60 năm để kéo cày giúp con người trồng trọt. Ngài ban cho con khỉ 20 năm để làm trò vui nhộn cho muôn loài và Ngài lại ban cho con chó 30 năm để canh giữ nhà cửa cho loài người. Sau một thời gian ngẫm nghĩ, con trâu xin trả bớt lại 40 năm kéo cày của nó, con khỉ cũng trả lại 10 năm và con chó xin trả lại 20 năm tuổi đời. Và con người thấy 20 năm sống của mình quá ít nên đã xin nhận thêm 40 năm của con trâu, 10 năm của con khỉ và 20 năm của con chó. Thượng Đế đã chấp nhận tất cả, nên ngày nay con người có 20 năm chuẩn bị vào đời, 40 năm để làm nên sự nghiệp, 10 năm để vui đùa với con chau và 20 năm cuối để ngồi trông ra cửa như con chó giữ nhà. Tôi thích nghĩ đời người được chia thành 3 giai đoạn: 20 năm đầu để chuẩn bị vào đời, 40 năm giữa để lập nghiệp và 20 cuối để chuẩn bị về trời.

Tuổi 60 có thể được xem là mùa thu cuộc đời, kiến thức và kinh nghiệm dư tràn nhưng không còn đủ nhiệt tình và sức khỏe để đảm đương những việc lớn. Người ở tuổi này đã cảm nghiệm được hơi lạnh của mùa Đông vĩnh cửu là cái chết, nhất là những lúc gặp vấn đề về sức khỏe và những va chạm cuộc sống, chứng kiến sự phũ phàng của tình người… Đôi lúc nhìn những đám mây lững thững trôi về cuối chân trời, họ như thấy đời mình cũng đang trôi dần về một cõi xa xăm nào đó: trời đất đang qua đi và mọi sự thế gian nầy cũng đang qua đi. Đôi lúc họ nhìn đời một cách nhẹ nhàng hơn, thấy mình không thuộc về nơi chốn này nhiều lắm mà như đang chuẩn bị đi du lịch ở một vùng đất nào đó… và rồi không biết tương lai cuộc đời sẽ ra sao? - Xin phó thác mọi sự vào tay Chúa quan phòng.

Nghĩ về mùa thu cuộc đời không phải là để bi quan và buông xuôi, nhưng hãy học cách chấp nhận nó như một quy luật tự nhiên của cuộc sống. Hãy tự biết mình và hãy sống hết mình. Không còn chỗ cho những huênh hoang tự đắc, những đấu tranh vô bổ, nhưng là biết sống chậm và cho những gì cần thiết: “Matta, con lo lắng nhiều chuyện, chỉ có một chuyện cần thiết thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất”. Người sống qua mùa thu cuộc đời muốn nghỉ ngơi đôi chút, trút bỏ những gánh nặng không cần thiết và những thứ làm cho tâm hồn mình ra nặng nề, dành thời gian để chuẩn bị cho con đường về trời của minh: sửa đổi chính mình, chuyên chăm nguyện cầu và âm thầm làm chứng cho những giá trị Tin Mừng.

Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Xin cho con nhìn thấy Chúa




Thiên Chúa ban cho con người đôi mắt thể lý và đôi mắt tâm hồn.
Nói về nỗi khổ của kẻ thiếu đôi mắt thể lý thì khá dễ hiểu, họ không cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và khuôn mặt tha nhân quanh mình cho nên họ thường khép kín tâm hồn: không ai hiểu mình và không ai thương mình. Chỉ có ai trải qua cảnh mù lòa mới cảm thông trọn vẹn với kẻ thiếu đi đôi mắt, là cửa sổ tâm hồn.

Nói về sự đui mù tâm linh thì còn khó diễn tả và hiểu thấu hơn. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa ban cho họ một khát vọng sâu xa như một ánh sáng đủ sức giúp họ tìm về nguồn cội, Chúa ban cho họ luật tự nhiên là những quy luật cơ bản để họ sống xứng đáng là con người. Lời cầu nguyện của Thánh Augustinô đã diễn tả đầy đủ sự thật nầy: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên hồn con mãi khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”. Nghỉ yên ở đây không phải là R.I.P., nhưng là nhận ra chính Chúa là Chân Thiện Mỹ, là nguyên thủy và là cùng đích của muôn loài, Chúa là căn cội mà mỗi người phải quy chiếu về.. Thánh Augustinô, sau một thời gian dài chạy theo danh vọng và dục vọng, đã được Chúa mở mắt tâm hồn mà nhận ra rằng: “được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích gì”. Và Thánh nhân đã từ bỏ quá khứ để trở nên người phục vụ Chúa Kitô một cách hăng say cho đến cuối cuộc đời.

Xin Chúa mở cho con đôi mắt tâm hồn để con thấy tình yêu Chúa kỳ diệu khắp nơi: nơi vũ trụ, nơi tha nhân và trong cuộc đời mình. Chính những đam mê làm cho đôi mắt tâm linh ra mù tối. Khi giảng dạy ở Nagiaret, Chúa Giêsu đã tuyên bố Ngài đến là để giải thoát cho kẻ bị giam cầm, loan tin mừng cho người nghèo khó, cho người què đi được,  cho người mù được sáng mắt. Tin Mừng chỉ thuật lại Chúa chữa lành đôi mắt thể lý cho vài người, nhưng Chúa đã mở mắt cho nhân loại khi công bố cho họ biết mọi người được ơn cứu độ, là con của Cha trên trời và là anh em với nhau.

Điều đáng buồn là sự mù lòa tâm linh là một ‘gen’ trội có tính lưu truyền rất mãnh liệt: người mù sinh ra người mù đã đành, cỏ lùng còn làm cho lúa chết ngạt hoặc biến chất. Sự mù tối tâm linh còn được sự tiếp tay của hệ thống luật pháp và sự cổ vũ vô trách nhiệm của đám đông mù quáng, gian dối.
Khát vọng sâu xa nơi nội tâm là một tia sáng và sự chiêm ngưỡng kỳ công vũ trụ là một tia sáng khác soi dẫn con người tìm đến Chúa: vũ trụ tốt đẹp nầy không thể tự nhiên mà có, phải có ai đó tạo thành. Chính hai nguồn sáng nầy đã thúc đẩy con người đi tìm chân lý: con người bởi đâu mà có, sống để làm gì, chết đi về đâu???

Còn nói tha nhân là anh em ư? Thật khó mà nhận ra khuôn mặt Chúa nơi những kẻ làm điều ác, dù biết rằng họ được tạo dựng giống hình ảnh Chúa và chính Chúa Giêsu đang hóa thân nơi họ, Chúa cải trang và ẩn thân nơi họ. Khi ai đó khó ưa, thì ta hãy cầu nguyện cho họ và vẫn phải yêu thương họ, vì đó là lệnh truyền của Chúa.

Có một câu chuyện kể rằng: Thiên Chúa muốn chơi trò ‘trốn tìm’ với con người. Để cho trò chơi thêm thú vị, các thiên thần góp ý với Chúa những nơi khó tìm nhất như là trên những đỉnh núi cao và nơi các vực thẳm đại dương, nhưng Chúa bảo: ta sẽ ẩn mình nơi tâm hồn con người là nơi họ không ngờ và họ không màng tìm kiếm. Thế đó, hãy trở về với nội tâm mình nhiều bao nhiêu có thể, ta sẽ gặp được Chúa và Chúa sẽ dạy ta nhiều điều.

Dưới gầm trời nầy, chỉ có Danh Giêsu mang lại ơn cứu độ và giải thoát con người khỏi những đam mê lầm lạc. Mỗi ngày hãy suy gẫm Lời Chúa, là lời có sức phân rẽ tâm hồn, là ‘đèn dọi bước chân con’. Hãy đến gặp Chúa Giêsu trong các bí tích, trong việc cầu nguyện, đọc sách đạo đức, nơi tâm hồn mình… thì chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta một đôi mắt tâm hồn trong sáng và không bị lạc lối trên muôn nẻo đường quanh co nơi trần thế.