Danh sách Blog của Tôi

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2015

Tản mạn




1. Tháng 12, bầu trời vùng Dăkmil dày đặc sương mù. Nói đến sương mù là ta liên tưởng đến sự thơ mộng như vùng trời Dalạt. Nhưng sương mù ở Dakmil có mùi khét và mù từ chập tối kéo dài mãi đến 8g sáng ngày hôm sau. Những giấc ngủ cư dân chìm trong sự vật vã mệt mỏi vì hít thở bầu khí không tốt cho sức khỏe. Không biết các cư dân các vùng nông nghiệp khác có sống trong sự độc hại giống như vậy không nhỉ và không biết liệu các cấp chính quyền có nghĩ đến một biện pháp cho vấn đề nầy không?
Giờ đây, nhiều hộ nông dân không muốn phơi cà phê nữa và toàn bộ sản phẩm của họ đều đưa về cho các lò sấy. Điều nầy có hai cái hại, thứ nhất là đốt mất số vỏ quý hóa đáng ra được ủ men bổ sung dinh dưỡng lại cho vườn cây và thứ hai là vấn đề ô nhiễm không khí vì các lò sấy mọc ra ngày càng nhiều và hoạt động hết công suất. Theo tổ chức Numbero, Việt Nam được xếp hàng thứ 7 về ô nhiễm môi trường, Trung Quốc đứng hàng thứ 5. Cứ tưởng rằng ở những thành phố lớn sẽ ô nhiễm hơn vì khói bụi và nước thải công nghiệp, nhưng vào mùa thu hoạch cà phê thì ở thôn quê, người khỏe mạnh còn cảm thấy tức ngực thì không biết người bệnh sẽ vất vả đến chừng nào! Không biết kêu ai đây? 

Đã nhiều lần Giáo hội kêu gọi mọi người bảo vệ lấy quả đất, người Kitô hữu cũng được mời gọi chăm sóc quả địa cầu, bảo vệ thiên nhiên. Mỗi người hãy có những đóng góp nho nhỏ cua mình: trồng cây xanh, giữ sạch sẽ môi trường sống của mình cũng như anh em, hạn chế đốt rác hữu cơ vì vừa tạo khí Co2 vừa kết liễu quá trình sống của các vi sinh vật. Tôi vẫn nhớ một lời nói của Đức Cha Giuse Trịnh Chính Trực: một cây gỗ để mục tự nhiên thì tốt hơn là đốt nó ra tro.

2. Năm thánh lòng thương xót. Nếu không để ý ta sẽ dễ thêm chữ Chúa vào giữa cụm từ hay cuối cụm từ trên, nhưng đúng là không có chữ Chúa trong cụm từ trên. Đọc kỹ lại ta thấy nếu có chữ Chúa thì điểm nhấn sẽ hạn hẹp hơn: phải tri ân Chúa và hưởng nếm lòng thương xót Chúa. Nhưng trong năm thánh nầy, ta còn phải thể hiện lòng thương xót với anh em: tha thứ, làm ơn, gần gũi … nghĩa là thể hiện tình thương với mọi người như gương Chúa Cha, Ngài làm mưa trên cả kẻ lành cũng như người dữ.
Trong gia đình, cha mẹ có bổn phận thể hiện tình yêu thương, dịu dàng để con cái cảm nghiệm được tình Cha trên trời, Đấng không ngừng chăm sóc, bảo bọc, tha thứ con người. Trong Giáo xứ, các linh mục phải cư xử thế nào để con dân cảm nghiệm được tình thương của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ mệt mỏi tha thứ, ân cần tiếp đón mọi người và sẵn sàng ra đi đến vùng ngoại biên. Như vậy trong năm thánh ngoại thường lòng thương xót, ta được mời gọi cảm nghiệm tình thương Thiên Chúa và được thể hiện tình thương một cách cụ thể với anh em, đó là hai mặt của một đồng tiền THƯƠNG XÓT.

Thứ Hai, 7 tháng 12, 2015

HÃY THƯƠNG XÓT NHƯ CHÚA CHA




Hôm nay, ngày 8.12.2015, năm thánh Lòng Thương Xót được khai mạc ở Roma. Đây là một biến cố được giáo dân khắp thế giới mong mỏi đợi chờ. Lòng thương xót Chúa đã có từ ngàn đời, mênh mang như trời bể, nhưng con người thường lãng quên vì những lo lắng sự đời. Biến cố khai mạc năm thánh Lòng Thương Xót do đức Phanxicô khởi xướng như luồng gió mát thổi vào Giáo hội và thế giới nầy, khiến ai nấy đều cảm thấy thảnh thơi nhẹ nhàng cho tâm hồn vì nhớ lại rằng mình được Thiên Chúa yêu thương.

Thiên Chúa đã yêu thế gian rất nhiều, vì yêu Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và vạn vật để muôn loài được chia sẻ vinh quang với Chúa. Nhìn trời xanh tay Ngài sáng tạo thật hùng vĩ và trật tự, vạn vật trên địa cầu rất đỗi phong phú, cách cấu tạo mỗi con vật và cơ thể người được tính toán chi li từng chút… thì ta phải nhận ra rằng có một ‘đấng uy linh’ đã tạo ra chúng. Thế nhưng, nhiều người lại nói: “mọi vật đều tự nhiên mà có, Đấng Tạo Thành là do sự sợ hãi trong con người tưởng tượng ra”. Họ là những người vô thần. Tựa như trong một gia đình, cha mẹ yêu thương con cái hết mực, thế nhưng có những người con chẳng hề biết ơn vì nghĩ rằng đó là điều tự nhiên. Trong năm Thánh nầy, ta hãy xin Chúa mở mắt đức tin để thấy được tình thương Chúa trên vũ trụ và trên đời mình.

 Ngày nay, một hiện tượng đáng báo động hơn là có những Kitô hữu vô thần. Họ vẫn tin Thiên Chúa là Đấng dựng nên vũ trụ, tin rằng Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban cho họ người Con Một là Đức Giêsu, tin Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh Hóa, tin các tín điều Giáo hội dạy, nhưng họ không còn muốn mất thời gian với niềm tin đó. Theo một bài phân tích mới đây về các Giáo hội ở Âu Châu thì số người hành đạo đang giảm sút đáng kể, người giáo dân rất ít lãnh bí tích hòa giải, họ rước lễ nếu có dịp tham dự Thánh lễ, dù tình trạng tâm hồn họ có ngăn trở vì li dị hay sống chung không hôn phối, có những người phá thai và còn biết bao tội lỗi khác. Còn ở Việt Nam, tình hình cũng khá giống như vậy rồi: người giáo dân mỗi năm xưng tội 2-3 lần, nhưng đã đi lễ là lên rước lễ đến 90%. Như vậy phải chăng có nhiều người rước lễ trong tình trạng không xứng đáng và mắc tội phạm Thánh. Giáo dân đã mất cảm thức về tội và các linh mục thì quá ít ngồi tòa giải tội, các ngài quá bận rộn nên dặn với giáo dân rằng: chỉ xưng tội trong những dịp ngài chỉ định, nên ai có tội nặng thì cũng đành mang kè kè bên mình và xưng thú trực tiếp với Chúa rồi rước lễ. Không khéo Giáo hội công giáo chuyển thành Tin Lành mất thôi. Để cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa, con người phải ăn năn sám hối và nhất là lãnh bí tích Hòa Giải. Ước mong các linh mục thúc giục con cái mình biết trở về với nội tâm, ý thức về tội làm phiền lòng Chúa và các ngài siêng năng ngồi tòa giống như cha Vianey, quan thầy các linh mục. Tại sao có những linh mục giải tội một cách vội vàng: giáo dân chỉ xưng tội rồi ra chờ, khoảng 30 người thì linh mục mới ra để khuyên nhủ vài điều và ra việc đền tội chung? Đáng ra, linh mục phải xem việc giải tội là thánh thiêng, vì mỗi lần xưng tội là một lần ta có cơ hội gặp gỡ trực tiếp Chúa Giêsu và cảm nghiệm được tình thương xót của Ngài. Đức Phanxicô vẫn thường xưng tội 2-3 tuần/lần và chính Ngài đã cảm nghiệm được lòng thương xót Chúa trong một lần xưng tội.



Câu chuyện về người Cha nhân từ được Thánh Luca mô tả trong chương 15,11-31 là một câu chuyện rất sâu sắc giúp ta hiểu phần nào về người Cha trên trời. Từ khi đứa con ra đi xa nhà, người cha mòn mỏi đợi chờ ngày nó trở về. Khi người con còn ở xa, người cha đã trông thấy, ông vội vàng chạy tới ôm chầm lấy cậu, không để cho cậu xưng hết mọi điều thì người Cha đã mặc áo, đeo nhẫn và xỏ dày cho cậu, lại còn sai làm thịt con bê béo mà ông đã để dành từ lâu cho sự việc, ông quên hết những lầm lỗi bất hiếu và phá tan sản nghiệp của cậu, ông vui mừng vì cậu đã trở về trong vòng tay yêu thương của mình. Thiên Chúa là Tình yêu là vậy. Ngài cũng mời gọi ta nên hoàn thiện như Ngài, yêu thương như Ngài. Trong năm thánh Lòng Thương Xót, ta được mời gọi trở về với Chúa và yêu thương anh em như mẫu gương của Cha trên trời.

Trong bài nói chuyện mới đây, Đức Phanxicô nói: Trước mắt chúng ta là cánh cửa, không phải chỉ là cánh cửa thánh, mà là cánh cửa khác; cánh cửa lớn của Lòng Thương Xót Chúa, và đó là cánh cửa đẹp, tiếp đón sự sám hối của chúng ta bằng cách cống hiến cho chúng ta ơn tha thứ của Ngài. Hãy bước qua ngưỡng cửa của lòng thương xót này của Thiên Chúa, là Đấng không bao giờ mệt mỏi tha thứ, không bao giờ mệt mỏi chờ đợi chúng ta.

Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015

Năm mới




Mùa vọng đã khai mạc năm phụng vụ mới. Mùa vọng là mùa chuẩn bị đón Chúa Kitô đến trong biến cố Giáng Sinh và cũng để đón chờ việc Ngài đến trong vinh quang.Điều trùng hợp là hai câu Tin Mừng Lc 21,34-36 vừa được dùng trong ngày cuối năm, vừa được dùng trong ngày đầu năm: “Anh em chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa và lo lắng sự đời. Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.

Dầu biết rằng trần gian là quán trọ, là nơi ở tạm để chuẩn bị cho cuộc sống đời đời mai sau, nhưng lòng con người khó tránh khỏi sự dính bén với vật chất và giá trị đời nầy. Thánh Gioan Tông Đồ nói đó là đam mê của con mắt, đam mê của xác thịt và lòng kiêu hãnh về của cải. Còn giáo sư Peter Kreff thì nhận định về Kitô giáo ở Âu Châu: “Kitô giáo đang suy đồi, đang chết tại Âu Châu, vì người ta theo đuổi một chủ nghĩa khoái lạc trần tục được xã hội kính trọng. Nỗi đam mê duy nhất của nó hiện nay là dục vọng chứ không phải tôn giáo”. Biến cố nước Pháp bị khủng bố vừa qua là một điều xấu mà ai cũng phải lên án, nhưng chắc chắn đó cũng là một tiếng chuông thức tỉnh cho nhiều người rằng: cuộc sống trần gian thật là tạm bợ, hãy lo tìm phần rỗi linh hồn.

Nhiều lần Chúa Giêsu đã nói tới việc người đầy tớ phải tỉnh thức và sẵn sàng vì không biết giờ nào ông chủ sẽ về. Có những đầy tớ nghĩ rằng còn lâu ông chủ mới về, nên ăn uống say sưa và đánh đập tớ trai tớ gái. Chúa còn bảo: “Vào lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Tùy tình trạng tâm hồn, mỗi người chúng ta sẽ được hưởng phúc thiên đàng hay bị phạt trầm luân.

Thời tuổi trẻ, con người đam mê làm việc và dệt nhiều ước mơ cho cuộc đời. Bước sang tuổi thanh niên, họ thực hiện ước mơ đó trong bậc sống gia đình hay bậc tu trì, rất sôi nổi và với nhiều đấu đá để đạt nhiều thành tích. Nhưng rồi sẽ đến giai đoạn tuổi già, là lúc con người đã nghiệm được nhiều sự đời, cảm thấu nhiều nỗi đau, và nhất là chia tay với nhiều người thân, nên đã hiểu được rằng: ‘cuộc đời là tương đối’, sống sao cho có đức và hạnh phúc, giá trị cuộc đời không phải là những gì mình ‘có’ mà ở những gì mình ‘là’. Khổng-Tử đã kể lại các giai-đoạn thành-đạt của cuộc đời ngài như sau: "Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên-mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, và thất thập nhi tùng tâm sở dục bất du củ" (Ta tới mười lăm tuổi mới chuyên-chú vào việc học, ba mươi tuổi mới tự-lập, bốn mươi tuổi mới thấu-hiểu hết sự lý trong thiên-hạ, năm mươi tuổi mới biết mệnh trời, sáu mươi tuổi mới có kiến-thức và kinh-nghiệm hoàn-hảo để có thể phán-đoán ngay được mọi sự-lý và nhân-vật mà không thấy có điều gì chướng-ngại khi nghe được, và bảy mươi tuổi mới có thể nói hay làm những điều đúng theo ý-muốn của lòng mình mà không ra ngoài khuôn-khổ đạo-lý). Trong lời phát-biểu trên, Đức Khổng-Tử có ý nói rằng con người tới một lứa tuổi nào đó mới có khả-năng nhận-thức và thực-hành những điều mà người chưa đạt đến lứa tuổi đó thì chưa nhận-thức và thực-hành được.


Lạy Chúa, không biết con có sống đến ngày Chúa quang lâm hay không, nhưng xin cho con biết cầu nguyện và tỉnh thức luôn, vì không biết ngày giờ Chúa gọi con về bên Ngài. Xin cho con biết chăm chỉ làm việc vì chu toàn bổn phận là con đường bảo đảm nên thánh, nhưng xin đừng để lòng con ra nặng nề bởi sự dính bén của cải, ham muốn danh vọng. khao khát đam mê và những giá trị người đời ca tụng. Xin cho con biết nói như Thánh Phaolô: tôi coi mọi sự đời nầy là rơm rác trước cái lợi tuyệt vời là được biết Đức Kitô, Chúa tôi. Xin cho con biết trở về với tình thương bao la của một người Cha, Ngài luôn muốn yêu thương cả loài người, như gà mẹ muốn tụ họp đàn con dưới cánh. Amen.


Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015

Vua Giêsu




Nói đến ‘vua’ là nói đến người lãnh đạo cao nhất của một đất nước, người nắm vận mạng dân chúng, lo cho người dân được an cư lạc nghiệp. Chức vụ càng cao thì sa ngã càng nhiều, nhiệm vụ càng nặng thì quyền lợi càng lớn. Thực tế, có rất ít vị vua lưu danh muôn thuở vì khôn ngoan và hành xử tốt nhiệm vụ của mình, nên tước hiệu vua thường gắn liền với khái niệm độc tài, hưởng thụ, quyền hành.
Chúa Kitô không phải là một vị vua như thế, vì nước của Ngài không thuộc về trần thế nầy và cách hành xử của Ngài rất khác: Ngài đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người (Mt 20,28). Sách Khải Huyền diễn tả: Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta”. Chỉ cần hiểu và cảm nghiệm được một câu kinh thánh này thôi thì cuộc đời chúng ta đã hạnh phúc lắm rồi. Chúng ta tri ân Chúa Giêsu là vua của các tâm hồn. Chúa Giêsu trở thành vua khi ta tuân phục thánh ý Ngài, khi ta phó thác cuộc đời cho Ngài, khi ta tuân giữ Lời dạy của Ngài, khi ta yêu mến Ngài.

Hãy học sự hiền lành và khiêm nhường của Chúa Giêsu. Ngài có khả năng để có một địa vị cao sang, một đội quân tinh nhuệ, một tổ chức bài bản và vô vàn của cải để thực hiện công việc mạc khải sự thật và để thực hiện công trình cứu chuộc. Nhưng Vua Giêsu đã chọn sinh ra nơi đồng vắng, sống âm thầm trong một gia đình nghèo và chết trơ vơ giữa trời đất – khi mọi sự vẫn còn dang dở… Tất cả là vì tình yêu và Ngài đã trở nên vua của mọi tâm hồn. Lạy Chúa Giêsu, con tri ân Chúa và con yêu mến Ngài. Xin biến đổi lòng con nên giống trái tim Chúa. Amen.

Thứ Ba, 17 tháng 11, 2015

Những nén bạc (Lc 19,11-28)


Ông chủ đi xa, giao cho các đầy tớ những nén bạc ít nhiều khác nhau, với lệnh truyền rõ ràng là phải làm sinh lời chúng. Đó là những hình ảnh ám chỉ rõ ràng về cuộc lữ hành của từng người trên trần gian nầy.

Chúa về trời, không phải là đi xa chúng ta, giống như trong gia đình có người thân đi ngoại quốc. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã hứa: “Này đây, Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế. Thầy không để chúng con mồ côi, Thánh Thần sẽ được sai đến”. Lời hứa của Chúa muốn nói với ta rằng: ngày Chúa về trời là kết thúc sứ mạng nhập thể cứu đời, sự hiện diện của Chúa chuyển sang một cách thức hiện hữu khác. Dù Chúa vẫn đồng hành với ta mỗi ngày, nhưng mắt ta không thể nhận ra Ngài một cách rõ ràng, nói cách khác là Chúa đã ẩn mình. Thời đại ta đang sống là thời đại Chúa Thánh Thần hoạt động, nhưng Ba Ngôi luôn hoạt động trong nhau. Ta tưởng rằng Ông Chủ đã đi xa, thực ra Ngài vẫn ở bên ta mà mắt ta không nhận ra, vì Ngài thiêng liêng và Ngài thích ẩn mình, đó là tự do của Chúa.

Kẻ năm nén, người hai nén, kẻ khác nữa lại chỉ có một nén. Đây cũng là một kế hoạch khó hiểu và gây vấp phạm cho chúng ta, bởi từ đó sẽ nảy sinh sự so sánh, ganh tị và kiêu ngạo. Thánh Giacôbê nói: ai nói mình đạo đức mà không kềm hãm miệng lưỡi mình là kẻ nói dối. Lòng kiêu ngạo và thói ganh tị đã làm băng hoại tâm hồn ta rất nhiều. Cứ xét xem những tội ta xưng từ trước đến nay, không lần nào là không có tội nói xấu, khoe khoang, huênh hoang về những ‘chiến công’ và tài năng của mình. Những cộng đoàn chia rẽ nhau cũng vì sự so sánh và dèm pha nói xấu. Công bằng mà nói: Thiên Chúa ban cho kẻ nhiều người ít là tự do của Ngài, mỗi người phải khiêm tốn chấp nhận khả năng mà Chúa ban cho riêng mình, mỗi người sẽ bị trả lẽ về những nén bạc mình có, kẻ có nhiều sẽ bị đòi nhiều hơn. Thánh Phaolô nói: ơn riêng mỗi người lãnh nhận là để phục vụ cộng đoàn. Sách tu đức dạy rằng so sánh mình với người khác là một việc làm vô ích, vì mỗi người là một nhân vị độc đáo, không ai giống ai. Trong 14 điều Phật dạy thì có ba điều liên quan đến ‘bí mật’ những nén bạc: “Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại. Bi ai lớn nhất của đời người là ghen tị. Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất chính mình” (internet).
Trong thời gian ông chủ đi xa, các đầy tớ được lệnh làm sinh lời những nén bạc chủ giao. Điều này muốn nói rằng cuộc sống luôn nằm ở trạng thái động, có thể thăng tiến và cũng có thể thụt lùi, dù trên lãnh vực nhân bản hay thiêng liêng. Có những đêm ta mơ về những cuộc gặp gỡ và tranh luận với người nầy kẻ nọ, cũng phùng mang trợn mắt đấu đá ra trò, cũng ghen tức như trong cuộc đời thực, thực đến nỗi lương tâm phải cắn rứt y như ta đã phạm tội. Có người nói nhân chi sơ tính bổn thiện, kẻ khác lại nói nhân chi sơ tính bổn ác, nhưng tôi cho rằng trong con người chúng ta luôn có một cuộc giằng co từng giây phút: một đàng ước muốn làm điều lành là hạt giống được Thiên Chúa gieo vãi, nhưng đàng khác những đam mê hướng ác lại lôi ta xuống. Sách GLCG dạy rằng: Dù đã được Chúa Kitô cứu chuộc, nhưng vì tội nguyên tổ, những đam mê của ta luôn nghiêng chiều về điều xấu. Và cuộc chiến đấu thiêng liêng nầy cũng là một phần trong thập giá cuộc đời.

Ông chủ đi xa, nhưng có ngày ông sẽ trở về. Điều này muốn nói rằng Chúa Kitô đi dọn chỗ cho ta và Chúa sẽ trở lại đem ta về ở với Ngài. Trong ngày đó, Chúa sẽ không xét xem ta có gì mà xét ta đã làm gì, có thực hiện ý Ngài hay không. Người có năm nén cũng được hưởng hạnh phúc mà người có mười nén cũng hạnh phúc. Chuyện cai trị năm thành hay mười thành không có ý muốn nói rằng có nhiều mức độ ‘hưởng thụ’ trong nước trời mai sau, vì mọi người đều được diện kiến Thiên Chúa diện đối diện và yêu mến Ngài trọn vẹn. Ở trong nước trời mai sau, không còn sự so sánh, ghen tị mà chỉ có tràn đầy tình yêu Thiên Chúa và mọi người.

Thứ Năm, 12 tháng 11, 2015

Lòng trông cậy Chúa




Biến cố tôn phong hiển thánh cho 117 vị tử đạo Việt Nam (19.6.1988), là một biến cố lịch sử của Giáo Hội Việt Nam. Không chỉ là sự nổi tiếng của hai chữ Việt Nam, nhưng biến cố nầy củng cố niềm tin cho các tín hữu đang phải trải qua muôn vàn thách đố của một xã hội rối ren thời hậu chiến. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã thắp lên  ngọn đuốc thiêng dẫn đường cho các tín hữu biết can trường thể hiện niềm tin, như men trong bột để làm dậy men một khối bột gấp 10 lần số men hiện có (7 tr/90 tr).

Sách Macabê kể lại câu chuyện: Bà mẹ can trường chịu đựng việc xử tử 7 đứa con trong một ngày là nhờ lòng trông cậy của bà được đặt nơi Chúa. Bà tin rằng Chúa sẽ nâng đỡ cuộc sống hiện tại trên trần thế, ban ơn trong gian nan và thưởng công bội hậu ở đời sau. Bởi đó, bà khích lệ con cái mình: đừng sợ mất mạng sống mình để trung thành với Thiên Chúa là Đấng muôn trùng cao cả.

Nhiều người nói rằng: người có đạo tôn thờ Thiên Chúa một cách vụ lợi vì họ trông chờ được thưởng công trong nước trời. Thực ra, hạnh phúc thiên đàng không phải là phần thưởng cho những công lao ta lập được khi sống trên đời, giống như chiếc huy chương mà vận động viên lập được do tài năng và lao động của mình, mà do lòng chạnh thương của Chúa ban cho. Hãy nhớ lại câu chuyện người công nhân giờ thứ 11 và câu chuyện người trộm lành trên thập giá. Đàng khác, hạnh phúc thiên đàng cũng không phải là thỏa mãn những đam mê mình đã ‘kiêng khem’ trên trần gian, nay được bù lại một cách phủ phê bất tận, mà là no thỏa trong tình yêu Thiên Chúa là nguồn cội của muôn loài. Thánh Augustinô đã thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài, và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài". Hạnh phúc thiên đàng là sự nghỉ ngơi, kết hiệp, chiêm ngắm và yêu mến Thiên Chúa.

Trong vài năm trở lại đây, những người Hồi giáo quá khích IS đã khủng bố và giết hại những người không thuộc phe họ. Họ tin rằng "Những ai bị giết vì “Chúa” đều được vào thiên đàng lạc thú". Nhưng Giáo hội Công giáo cũng tin rằng những người Kitô hữu bị giết cũng là những vị tử đạo, vì họ bị giết là vì không chịu cải đạo sang Hồi giáo. Những Kitô hữu nầy không có cơ hội được tuyên xưng đức tin một cách công khai, nhưng tuyên xưng bằng chính mạng sống của mình; dù họ im lặng chịu hành hình, hoặc thân xác nổ tung vì bom đạn thì những giọt máu của họ đổ ra là một lời chứng hùng hồn rằng họ đặt niềm trông cậy vào Thiên Chúa. Người tử đạo của IS ở trong tư thế tấn công, thù ghét, làm khiếp sợ để truyền giáo; còn người tử đạo Kitô giáo thì trốn chạy và hiền lành như chiên bị sát tế, tha thứ cho kẻ làm khốn mình, noi gương cuộc tử đạo của Thầy Giêsu.
Giáo lý dạy rằng: kiếp sống trần gian là kiếp lữ hành tiến về quê trời, tựa cuộc xuất hành về đất hứa của dân Do Thái xưa kia. Thực ra con đường từ Ai Cập về đất hứa cũng không xa xôi gì, vậy mà cuộc xuất hành đã trải qua 40 năm trong sa mạc là để nhằm thanh luyện họ. Trong cuộc xuất hành đó, dân Chúa đã trải qua sự truy đuổi của quân đội Ai Cập, đã trải qua sự thiếu thốn cơ cực, đói khát và chán nản, nên đã nhiều lần lẩm bẩm kêu trách Thiên Chúa… nhưng cuối cùng họ đã vào đất hứa, họ đã cảm nghiệm được sự đồng hành gần gũi của Chúa. Cuộc hành trình của dân Do Thái là hình ảnh cuộc hành trình của mỗi người chúng ta đang cùng nhau tiến về quê trời. Là công dân nước trời, là con cái ánh sáng, Kitô hữu luôn bị bắt bớ vi đi ngược dòng đời. Nếu nghĩ rằng mình vừa là con cái Chúa vừa được thế gian yêu mến thì đó là một ảo tưởng. Thế gian có những ‘ngẫu tượng’ của mình và nghe theo lời dạy của vị thần đó, trong lúc Kitô hữu chỉ tôn thờ Thiên Chúa và sống theo lề luật Chúa dạy thì sao mà không có xung khắc và bách hại? Ngày xưa, các Thánh Tử Đạo Việt Nam chẳng làm gì hại nước hại dân, nhưng các Ngài đã bị giết chỉ vì không chịu chối bỏ niềm tin vào Thiên Chúa là Đấng sáng tạo nên trời đất, là Tình Yêu. Ngày nay, người ta cũng ‘không ưa’ người Công giáo khi họ tìm kiếm việc làm, người ta dùng luật pháp để hủy hoại gia đình và những giá trị Kitô giáo, người ta hạn chế không cho Giáo hội cộng tác vào y tế và giáo dục để hạn chế tầm ảnh hưởng của tôn giáo.

Ai đó đã từng nói: Trong giấc mơ ai cũng mong ước trở thành thánh tử đạo, nhưng trong cuộc sống ta khó sống cho ra con người. Điều đó muốn nói lên rằng bao lâu còn sống trên trần gian thì cuộc giằng co giữa thiện và ác luôn giao tranh mãnh liệt. Hãy cầu xin với các thánh Tử Đạo Việt Nam để xin ơn phù hộ trở nên chứng nhân can trường giữa dòng đời. Ma quỷ như sư tử gầm thét đang rảo quanh ta để tìm mồi cắn xé. Hãy luôn trông cậy vào Chúa, Chúa sẽ kíp ra tay, cả trong cuộc sống thường nhật và cả khi cần đổ máu để minh chứng cho sự hiện diện của Chúa.

Thứ Năm, 5 tháng 11, 2015

Lòng quảng đại




Những bản văn của Chúa Nhật 32 Tn gợi lên cho ta những suy tư về lòng quảng đại. Trao ban và nhận lãnh là hai khía cạnh của tình yêu. Sự thường thì việc cho đi khó hơn là nhận lãnh. Nhưng khi một người khá dư đầy của cải thì việc nhận lãnh cũng rất khó, vì tính sĩ diện và không muốn mang ơn. Và thường một người túng thiếu thì chỉ mong nhận lãnh mà ít nghĩ đến việc cho đi, vì nghĩ rằng mình chẳng có gì để trao ban.
Hai bà góa, một ở Sa-rép-ta và một trong Tin Mừng Mác-cô lại đánh động chúng ta vì họ thể hiện một sự quảng đại trong việc trao ban: rộng rãi cho đi trong cảnh nghèo túng cùng cực của mình. Bà góa nghèo của thời cựu ước được hưởng phần thưởng ngay: mạng sống cả 3 người được cứu sống suốt qua mùa hạn hán. Phép lạ xảy ra là do lòng xót thương của Chúa cộng với lòng quảng đại của bà. Còn bà góa của thời tân ước được Chúa Giêsu khen tặng hết lời, như một mẫu gương cho ta noi theo. Chúa Giêsu đề cao tấm lòng của người đàn bà góa nầy vì hành động cho đi đến cùng của bà là hình ảnh của chính cuộc đời Ngài. Chúa Giêsu đã từ bỏ cõi trời đến ở với loài người để chia sẻ phận người, và khi đến thời đến buổi Chúa cũng trao ban tất cả cho ta trong việc hiến tế chính mình để đền tội cho nhân loại (Hr 9,26).

Lời tiên tri Ê-li-a nói “đừng sợ” đã được hai bà góa thực hiện một cách triệt để. Hai bà cứ cho đi tất cả, dù mình chẳng còn lại gì và chẳng biết ngày hôm sau sẽ sống thế nào. Có thể nói hai bà góa đã có một sự tin tưởng đến liều lĩnh rằng Thiên Chúa sẽ định liệu, họ trao ban cả cái tôi để hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa. Chúng ta liên tưởng đến thái độ của ông Abraham khi dám lìa bỏ quê hương và khi dơ tay định sát tế đứa con trai duy nhất của mình, vì vâng lệnh Chúa. Và đó cũng là thái độ của Mẹ Maria khi nhận lời thiên sứ truyền tin, của thánh cả Giuse và của các thánh tử đạo: trao ban cả mạng sống và cả tương lai vào tay Chúa định liệu. Đừng sợ để mở cửa tâm hồn cho Chúa Kitô và đừng sợ khi Chúa muốn ta hiến thân phục vụ anh em. Mẹ Têrêxa nói với ta rằng: Hãy cho đi đến độ ta cảm thấy đau đớn thì việc cho đi mới đáng kể. Việc 'cho đi' phải được luyện tập như bài tập thể dục. Một phương cách tập luyện hữu ích là tham gia sinh hoạt tập thể trong giáo xứ và giáo phận. Đôi lúc ta đau xót vì mất giờ, vì đụng chạm, vì chẳng có lương bổng, nhưng hãy nghĩ đến những lời của Kinh Hòa Bình để tìm được lẽ sống: "chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là khi gặp lại bản thân, chính lúc thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời".
Xã hội đang loạn lên vì con người thường vơ vét mọi lợi lộc và những điều tốt lành cho mình mà không xét đến anh em. Người ta buôn bán vũ khí, buôn bán nô lệ thời mới (cơ phận, mại dâm, lao động), ma túy và hàng lậu, dùng hóa chất trong sản xuất (chế biến, chăn nuôi, trồng trọt, nước thải ô nhiễm) … miễn sao thu lợi càng nhiều càng tốt, ai chết mặc ai. Gần đây, Việt Nam được xếp vào tốp đứng đầu về tỷ lệ bệnh ung thư. Điều nầy cũng dễ hiểu vì điều kiện sinh hoạt và môi trường sống còn thiếu vệ sinh, hệ thống kiểm định an toàn thực phẩm còn lỏng lẻo: nhìn đâu cũng thấy chất độc nhưng không ăn không uống thì lại chết đói. Nghĩ đến cái chết và nghĩ đến bệnh ung thư ta cảm thấy sợ, nhưng cũng là một động lực để ta sống tốt những ngày được Chúa ban cho sức khỏe. Còn giờ nào, ngày nào gặp gian nan thử thách thì cứ phó thác cho Thiên Chúa định liệu. Hãy can đảm đi ngược dòng khi biết trao ban rộng rãi cho tha nhân, đừng làm gì lợi mình mà hại người.
Có rất nhiều bà góa thời tiên tri Ê-li-a nhưng chỉ có bà góa ở Sarepta là được Chúa đoái thương. Điều này nói lên hồng ân nhưng không. Được trở thành con cái Chúa cũng là một hồng ân nhưng không mà ta phải cảm tạ suốt đời. Được sinh ra trên cõi đời, được sống đến giây phút nầy, được hưởng sự êm ấm của một gia đình, được ngồi trước màn hình vi tính, được lành lặn cơ thể, được có những của cải và điều kiện như đang có… đều là một ân ban hơn là vì tôi xứng đáng. Bởi đó, hãy dâng lời tạ ơn mỗi ngày (kinh cám ơn, kinh đội ơn).
Được gọi trở thành linh mục và tu sĩ, hoặc để sống bậc sống gia đình cũng là một hồng ân nhưng không mà ta phải tạ ơn và nhất là hãy sống khiêm tốn phục vụ. Trong bài Tin Mừng Chúa cảnh giác dân chúng đừng học theo và đừng  “đánh giá sai” lối sống hình thức của các kinh sư: hám danh, giả hình, hưởng thụ. Tiêu chuẩn để đánh giá một con người đạo đức là khiêm tốn, trao ban và liên kết mật thiết với Chúa. Chiếc áo không làm nên thầy tu mà là nhân cách: hiến thân, băng bó chữa lành chứ không phải cứ rình làm thịt chiên. Còn đời sống hôn nhân thì rõ rồi: cứ khiêm tốn phục vụ, biết tha thứ, cùng nhau cầu nguyện thì sẽ hạnh phúc.

Môi trường gia đình là nơi thích hợp để rèn luyện đức yêu thương: trao ban và nhận lãnh. Tình yêu cha mẹ dành cho nhau là một lời dạy hùng hồn cho con cái. Nhưng hãy xét mình lại xem mình có nêu gương sáng về sự phục vụ vô điều kiện, phục vụ trong khiêm tốn (không khoe khoang hay kể công) hay không? Hãy coi chừng thói nạnh kẹ và so đo tính toán vẫn ẩn nấp ngay trong các thành viên gia đình. Cha mẹ hãy giúp con cái mình biết tha thứ cho nhau, sống hòa thuận và nâng đỡ nhau trong cuộc sống hằng ngày, có vậy con cái chúng ta mới biết trao ban trong đời sống xã hội.

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2015

Ngày lễ bạc - Ngày lễ vàng (Lm. Nguyễn Tầm Thường)



ĐOẢN KHÚC 82: NGÀY LỄ BẠC (ĐƯỜNG ĐI MỘT MÌNH)



Tôi chết được 25 năm rồi. Hôm nay tôi trở lại tảo mộ lần thứ hai. Tôi gọi là Ngày Lễ Bạc.
Sau khi chết được ba năm. Tôi tảo mộ lần thứ nhất. Lần đó tôi kể trong trong tập sách Cô Đơn và Sự Tự Do, đoản khúc số 59. Ngày đó mộ tôi không có hoa. Không có ai đến mộ tôi cả. Tôi đứng đó hồi hộp suốt buổi chiều. Mây xuống thấp, xám một hoàng hôn. Rồi trời tắt nắng phía sau hàng cây. Tôi còn nhớ rõ hôm ấy trời không gió. Nghĩa trang im lìm. Sau ba năm tôi chết, vẫn còn ít người nhớ và cầu nguyện cho tôi. Nhưng không ai ra nhìn mộ tôi.
Tôi biết nếu trở lại vào năm sau thì cũng thế. Thản nhiên như một cánh chuồn chuồn đậu hờ hững trên một bờ giậu thưa nào đó. Không có gì hồi hộp nữa nên tôi không trở lại. Đợi 25 năm sau. Một kỷ niệm đặc biệt hơn. Ngày Lễ Bạc.
Tôi đang đứng trong nghĩa trang, chỗ tôi đứng lần thứ nhất cách đây 20 năm về trước.
Tên tôi vẫn còn. Tên được khắc vào mộ đá. Nhưng rêu lắm rồi, dơ bẩn nữa. Mộ đá không còn sạch như ba năm sau khi tôi chết. Bây giờ sần sùi, mốc rêu xanh. Ngày xưa không có cây cổ thụ ở chỗ này. Họ trồng bao giờ thế? Cả cái nghĩa trang này bây giờ cũng khác. Ngôi mộ cạnh tôi không còn. Họ bốc đem đi hồi nào mà bây giờ có một cái tên lạ hoắc.
Trên cành cây già, một loại côn trùng nào đó rỉ rả tiếng kêu cuối mùa. Hôm nay cũng không có gió như lần trước. Những chiếc lá lặng lẽ. Nghĩa trang cũng yên tĩnh như ngày xưa.
Tôi đến gần mộ, nhìn xác tôi dưới đất sâu. Chiếc quan tài gỗ mục từ bao giờ? Đất sập kín lẫn với xương. Đất dưới đó ẩm ướt. Có bùn sền sệt. Nước quanh năm. Tôi không còn hình hài gì cả. Có những con trùng trườn qua trườn lại trên khúc xương. Người ta bảo trắng như xương. Thật không phải thế, xương lấm dơ đen, rỗ những vết bọ ăn, bùn cắn chặt vào những kẽ nứt. Bọ ăn làm các xương không còn nhẵn nhụi. Chiếc sọ đầu còn nguyên vẹn hơn cả. Hai cuồng mắt rất to. Tôi nhìn xuống, chiếc sọ cũng giống như trăm nghìn chiếc sọ khác. Tôi không thể phân biệt được. Ngày còn sống, tôi băn khoăn về làn da. Nhìn kìa! Chỉ tuần lễ sau khi chết. Nó rữa ra. Ngày còn sống, tôi chải chuốt mái tóc. Tôi tìm cách nhuộm cho người ta thấy mình trẻ. Tôi băn khoăn về cái nhìn. Tôi muốn chinh phục. Bây giờ cái sọ trọc, rỗng, nhúc nhích loại giun nào trong đó? Tôi đứng nhìn tôi, tôi nhìn sang tất cả những xác chung quanh và tôi sợ. Tôi thấy xa lạ với chính mình. Hình hài thân xác tôi đấy ư? Tôi đang mừng 25 năm, Lễ Bạc sao? Còn đâu những lúc băn khoăn mùi nước hoa nào, Chanel 5 hay 8?
Tôi biết chắc là không có ai đến mộ tôi 25 năm sau. Tôi biết là không có hoa ở mộ. Tôi không hồi hộp gì cả, tôi không chờ đợi gì cả khi trở về đây. Kỷ niệm 25 năm ngày tôi chết là của riêng tôi. Hôm nay tôi có thì giờ nhìn ngắm tôi và những gì xảy ra nơi đây.
Ở một góc kia, người ta đang khóc. Một đám tang đang chôn. Có linh mục mặc áo lễ. Lại cũng có ca đoàn hát. Sao mà giống tôi 25 năm về trước thế. Hoa chung quanh mộ, rồi mấy hôm nữa hoa sẽ rữa, người được thuê làm vệ sinh lại hốt đổ vào thùng rác.
Có những mộ bia không còn hình dạng. Họ ra đi trước tôi lâu rồi. Có người mới chôn vài năm nay, có người mười năm, có người hai mươi năm, có người cả trăm năm. Ghê nhất là những người mới chôn. Ngôi mộ này của một người đàn bà. Chết đã tháng nay. Áo quần còn mới, nhưng xác rữa rồi, lúc nhúc dòi bọ. Chiếc quan tài còn cứng, xác trong đó phồng căng, sình rữa. Tóc bết lại. Áo nhung và thịt kết dính chặt lại. Những con dòi trắng cắn loang lổ nhiều vùng vải lỗ chỗ. Đấy cũng là hình hài tôi 25 năm về trước.
Ngày còn sống tất cả những người đang nằm đây xum xuê từng lọn tóc, mà bây giờ thế ư?
Tôi đi tìm xem ai là người trí thức. Không thấy ai cả. Chết được vài ngày, tất cả sọ người đều nồng nặc hôi thối.
Tôi đi tìm xem ai là người nổi tiếng. Tất cả chỉ là những mảnh xương dính bùn đen đủi và toàn dòi bọ ở trong.
Tôi đi tìm xem ai là người giầu có. Không thấy ai cả. Tất cả đều trần trụi không còn manh áo che thân. Tôi không thấy kim cương, vàng bạc. Tôi tưởng người thân chôn theo, nhưng không, người ta giữ lại hết. Người ta chỉ chôn xác thôi.
Tôi đi tìm xem ai là người lúc sống họ lên tiếng phải  xây dựng Giáo Hội thế này, phải cải tổ Giáo Hội thế kia. Không thấy ai cả. Lúc đương thời, họ sống chết, ăn thua đủ với nhau chỉ vì “bảo vệ đức tin.”. Trong cái nghĩa trang này thân xác nào cũng hôi tanh.
Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Cái sọ kia ngày xưa đã bao nhiêu suy nghĩ. Những giấc mơ ấy bay về đâu? Còn dưới đó không? Trái tim ôm ấp bao nhiêu tình cảm. Cái mùi tanh hôi nồng lên khi nó rữa ra.
Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Tôi nghe chung quanh tôi, trăm nghìn tiếng động xèo xèo. Nhiều xác mới chôn đang rữa. Tiếng những con bọ ăn vào xương. Những xác chết đang xảy ra giống tôi 25 năm về trước.
Ở phía kia, đám tang đã xong. Nhiều người đứng xa mộ để có thể ra về sớm hơn. Họ còn nhiều việc phải làm. Họ rất bận rộn. Họ không muốn ở đây lâu. Chiều xuống tối rất mau. Người ta phải về. Xác mới chôn nằm đó. Vài ngày nữa sẽ có ai đó tiếc thương đem hoa ra mộ. Rồi ba năm sau không còn ai. Rồi 25 năm sau nếu trở về đây cũng sẽ giống tôi bây giờ. Lần lượt ra đi theo con đường đó. Giống nhau.

Bỏ nghĩa trang, tôi đi tìm lại con đường tôi đi năm xưa. Phần lớn còn đó những chỗ này mới hơn thì chỗ kia cũ kỹ đi. Nhiều toà nhà bỏ trống hoang phế. Tôi không còn gặp mấy người quen. Một vài người tôi tìm mãi mới thấy. Vì họ thay đổi quá nhiều rồi. Họ chậm chạm, đau yếu. Họ lẩn thẩn. Cái thế giới 25 năm về trước không còn. Đất trời còn đó. Mặt trăng vẫn thế. Cả gió biển và mầu xanh của sóng nữa. Nhưng con người và thế giới lúc họ trẻ hết rồi. Đời họ bây giờ ai cũng lầm lũi. Tôi đứng nhìn họ mà không muốn hỏi chuyện vì bắt họ nhớ lại những ngày quá xa. Bây giờ họ chỉ muốn thầm lặng sống qua ngày thôi. Vài người sót lại trong viện dưỡng lão, lặng lẽ. Người tôi quen ngày xưa, chết hầu hết rồi.
Những tờ thư cũ, tấm hình năm xưa sau khi tôi chết, có vài người giữ nó ít năm. Đến lúc họ chết thì kẻ sau dọn phòng không biết tôi là ai. Tất cả vào thùng rác sau khi người đó chết ít ngày. Bây giờ tôi không còn dấu vết là bao.
Tôi đi tìm những chữ nghĩa ngày xưa tôi học. Vất vả toan tính. Ngày ấy nuôi bao nhiêu mộng mị ở miếng bằng ra trường. Bám vào tên tuổi muốn xã hội tặng ban. Cần treo tấm bằng ở nơi làm việc. Chụp chung tấm hình với nhân vật tiếng tăm. Bây giờ chả còn gì.
Đã 25 năm rồi, tất cả đồ dùng của tôi đã biến mất. Chiếc xe ngày xưa tôi đau buồn vì trầy vết sơn. Ngày ấy không dám cho người khác mượn, tôi lau chùi thật bóng. Bây giờ là bụi rác ở đâu? Tôi đứng đây nhìn lại cuộc đời. Tất cả qua đi như con gió thoảng mà sao ngày ấy lòng tôi bồn chồn, lo lắng, tiếc nuối những thứ này thế.
Tôi đi tìm những công trình tôi để lại. Người để công trình này, người để công trình kia. Tôi để lại những bài diễn văn. Ai còn nhớ? Họ quên ngay khi tôi rời cái mai-cô-phôn cơ mà. Ngay khi ra khỏi phòng họp, ngay mấy phút sau. Vậy mà hôm nay tôi đi tìm nó như một công trình để lại sao? Giật mình. Tôi thấy mình quá ngớ ngẩn. Vậy tôi đi tìm gì hôm nay? Còn gì không? Ngay cả những người tôi quen biết cũng không còn, thì tôi còn gì? Ai mà giữ những kỷ niệm của tôi khi họ không biết tôi là ai?
Tôi không ngờ ngày lễ bạc này buồn tẻ hơn ngày tảo mộ lần thứ nhất. Ngày ấy sau có ba năm tôi chết. Đứng một mình ngoài nghĩa trang, không có ai ra mộ tôi như hôm người ta chôn tôi. Nhưng ngày ấy trở về tôi còn nhìn thấy nhiều bóng hình tôi quen. Tôi còn gặp vài tờ như tôi viết cho họ. Có kẻ còn giữ tấm hình tôi. Lần này hoang vu quá. Trống trải. Ngày 25 năm Lễ Bạc mà vắng thật vắng.
Bây giờ tôi hiểu, Ngày Lễ Bạc là của chính mình. Một mình mình thôi.
Nhiều điều chết rồi mới thấy rõ. Lúc sống sao tôi không nhìn thấy. Chẳng hạn như tôi băn khoăn làm sao để lại công danh cho đời. Đời chả cần gì tôi. Cần hay không, tiếng kêu của một cánh ve trong chiều hè trống trải mênh mông? Chẳng hạn như tôi lo lắng ngày mai ra sao, tôi phải tích góp bao nhiêu cho đủ? Bây giờ thấy quá rõ rồi, ngày mai, tức là bây giờ tôi đang đứng đây. Trong nghĩa trang người ta không không còn nhan sắc, người ta không cần chỗ ở.
Nếu bây giờ sống lại kiếp người, tôi sẽ rong chơi, tôi sẽ ca hát với suối xanh, tôi sẽ với mây trời cho trái tim tôi bao dung. Nhưng trễ quá rồi.

Tất cả những gì nhìn thấy đều không mang theo được khi tôi chết. Son phấn. Sự nghiệp. Cũng không phải tất cả những gì thuộc tinh thần là mang theo được đâu. Những điều thuộc tinh thần như tình yêu, lòng thù ghét, niềm kiêu hãnh, sự ghen tị, giận dữ, bao dung cũng tuỳ đó. Chỉ những gì tinh thần mà thuộc về Đức Kitô mới tồn tại.
Như vậy cuộc đời người ta phải bỏ lại tới 98 phần trăm. Chỉ có hai phần trăm mang theo là tình yêu Chúa và bao dung với người đời.
Lúc sống, tôi quá vất vả cho 98 phần trăm cái không mang theo được. Hôm nay nhìn lại trong ngày kỷ niệm 25 năm tôi chết. Trở về tìm lại những bến bờ đã đi qua. Chả còn gì. Nếu tôi được sống lại, tôi sẽ sống  như thế nào?
Hỏi mình vậy thôi, chứ tôi biết, quá trễ rồi.
Đường tôi đi, bây giờ lại vẫn chỉ một mình, mình đi. Tôi lại nhủ lòng: Đường đi một mình.

ĐOẢN KHÚC 83: NGÀY LỄ VÀNG (ĐƯỜNG ĐI MỘT MÌNH)



Kỷ niệm của hôn nhân hay đời tu mà được 50 năm người ta gọi là Lễ Kim Khánh. Vì đời người ngắn ngủi nên không mấy người có cơ hội mừng lễ vàng. Tôi cũng vậy, tôi không có cơ hội mừng lễ vàng khi tôi sống. Tôi trở về kỷ niệm 50 năm ngày tôi chết. Lần này tôi tảo mộ lần thứ ba. Tôi gọi là ngày kim khánh của tôi
Người ta đưa tôi ra nghĩa trang 50 năm rồi. Thấm thoát thế mà tôi đã chết nửa thế kỷ. Hai lần trước tôi tìm thấy mộ người ta chôn tôi. Lần này trở về nghĩa trang tôi không còn mộ nữa. Tôi thơ thẩn cả chiều nay. Tôi hoàn toàn mất dấu vết trên cõi đời rồi sao?
Nghĩa trang ngày xưa người ta chôn tôi không còn nữa. Tất cả người thân rỡ mộ đi chôn nơi khác. Tôi là người không có thân nhân. Cuộc đời đâu có gì trường cửu. Người ta có thể thay đổi bất cứ gì người ta muốn. Mỗi chính thể một vận mệnh. Mỗi chính sách một sáng kiến riêng. Không ai nhận mộ thì người ta đỡ đưa vào một nơi. Nhưng người ta làm cho có lệ. Họ để lẫn lộn, tôi không còn tìm ra tôi nữa. Bây giờ tôi không biết mình còn xương cốt không. Tất cả sọ người đều giống nhau. Thế là tôi mất tên tuổi một kiếp người.
Không còn nghĩa trang để tìm tôi. Không còn ngôi mộ để nhìn mình. Tôi đi về đâu?
Tất cả những người tôi quen không còn ai sống sót. Chiếc xe lăn của người tôi quen biết sau cùng đã thành sét rỉ lâu lắm rồi. Những người sống với tôi thời ấy đều chết cả. Mới ngày nào ăn cơm với nhau, cùng đi chơi biển với nhau, cùng dạo phố. Thế mà bây giờ im quá. Tôi đi qua phố. Tôi bước qua nhà. Từng con đường. Không gặp một ai. Căn nhà xưa tôi ở, bây giờ ai đó làm chủ, lạ lắm. Nhiều căn nhà không còn nữa.
Tất cả kỷ niệm liên quan tới tôi không còn gì. Những tấm hình tôi chụp trên những thành phố tôi đi qua, nay ở đâu? Không còn một chút gì. Tất cả những người tôi gặp hôm nay như người từ hành tinh khác đến chiếm trái đất của tôi ngày xưa. Tôi không biết một ai. Hoàn toàn không biết một ai. Người ta không thể tưởng tượng nổi nếu tôi hỏi họ xem có ai biết kỷ niệm của tôi ở đâu.
Đi tìm ngôi mộ mình mà không thấy. Đứng phân vân, rồi tôi nghĩ mình là linh mục, tôi có thể trở về nhà thờ.
Nhà thờ cũng không có ai biết tôi. Đây có phải là nhà thờ ngày xưa tôi sống không?
- Thưa ngài, không phải, chúng tôi mới dựng lại nhà thờ này. Cái cũ đập rồi.
Tôi bàng hoàng không tin như thế. Mới có nửa thế kỷ mà thay đổi như thế sao? Có thể tôi lầm. Tôi đi tìm chỗ khác.
Công trình trường cửu nhất là nhà thờ mà cũng không còn sao? Tôi đi tìm sổ rửa tội. Đấy là nơi chữ ký tôi sẽ nằm vĩnh viễn trong Giáo Hội. Cũng không còn. Cơn hoả hoạn đã cháy hết. Những gì là trường cửu như thế mà cũng không lưu được dấu vết một lần tôi làm người trên cõi đời này sao? Cuộc tảo mộ lần thứ ba này vắng vẻ hơn hai lần trước nhiều. Ngày lễ vàng, kỷ niệm 50 năm tôi chết. Không còn dấu vết.
Tôi đứng bơ vơ nhìn dòng đời trôi. Chả ai biết mình. Mình chả biết ai. Nhớ lại mới ngày nào đây mà giờ sao khác biệt lạnh lùng thế. Ngày ấy tôi làm chủ biết bao nhiêu thứ. Nửa nông trại. Một dẫy nhà cho thuê. Tôi lao đao trong đời cho bao nhiêu chuyện. Bây giờ là hư vô. Hai bàn tay tôi trần trụi đứng nhìn dòng đời. Đời không thuộc về tôi nữa.
Nhớ lại những ngày đó, bấy giờ mọi sự sao như trường tồn vĩnh cửu. Chúng có sức thu hút mê hoặc. Tôi bị ràng buộc khổ sở vào bao nhiêu điều. Tôi không có thời gian nhìn hoàng hôn buông nắng. Bận rộn không thấy nắng đưa mây xuống chân đồi. Tôi không nghe bài ca con hoạ mi hót lúc gió xuân. Tôi không thấy những chùm hoa dại đong đưa giữa trời đất vui niềm vui tự do.
Ngày đó mất lòng nhau cũng chỉ vì những thứ ràng buộc ấy. Tôi mất bao hạnh phúc của cánh bướm thong thả buông chơi bên sườn đồi.
Ngày đó sao tôi sống khổ sở vì những cạnh tranh. Tôi mất bao thanh thản của tâm hồn. Tôi mất bao êm ả như cánh én êm đềm báo tin mai vàng đang nở.
Ngày đó sao sống đau đớn vì những bực mình. Tôi mất bao tối nhìn trăng buông ánh sáng xuống thung lũng.
Ngày đó sao sống lo âu vì không tin tưởng được nhau.
Tôi mất bao bến bờ đẹp của biển lúc sương khuya, rất mênh mông.
Ngày đó tôi lo tương lai sống ra sao. Tôi mất bao nhiêu cõi trời thênh thang. Tôi không nghe có tiếng khóc bên đời. Trái tim tôi chật hẹp vì quá nhiều tiếng thở dài. Bao giờ cũng thấy nỗi đau của mình là lớn nhất.
Tôi đứng đây nhìn lại cuộc sống của mình nửa thế kỷ về trước. Tôi hỏi lòng tôi: Những bon chen kia đâu rồi? Những điều làm tôi giận giữ kia đâu rồi? Những thứ tôi yêu mến kia đâu rồi? Những thành công của tôi đâu rồi? Những lo âu của tôi đâu rồi? Chả còn gì.
Mọi sự đã hết. Bây giờ tôi đi về đâu ?
Tôi không còn nghĩa trang về thăm mộ.
Tôi không còn người quen về nhìn xem họ còn giữ kỷ niệm nào của tôi không.
Vậy bây giờ tôi đi về đâu?
Tôi chỉ còn một cõi đi về vĩnh cửu phía bên kia. Tôi sẽ không bao giờ trở lại đây một lần nữa. Hôm nay là lần cuối cùng.
Phía bên kia là chốn nào?
Ngày còn sống, tôi đã vẽ đường về chốn bên kia cho tôi. Hôm nay tôi cần tấm bản đồ đó. Ngày ấy tôi vẽ rõ đường thi hôm nay tôi thong thả, an tâm đi về. Ngày ấy tôi vẽ quanh co thì hôm nay tôi bối rối hoang mang.
Tôi đi về đâu phía bên kia?
Hôm nay không có ai đi với tôi.
Đường tôi đi một mình.

Lần tảo mộ thứ hai. Ngày silver jubilee, tôi nhìn lại đời mình, nếu lấy con số 100 cho chẵn, tôi thấy 98 phần trăm những gì tôi nhìn, tôi chiếm hữu đều không đem đi được. Chỉ có hai phần trăm là:
- Tình yêu Chúa và trái tim bao dung với anh em.
Chỉ có hai phần trăm ấy đem theo được thôi. Nhà thờ cũng bỏ lại. Bản đồ ngày xưa tôi vẽ có rõ không hay chằng chịt không biết lối nào đi.
Bây giờ là định mệnh.
Không còn chốn nào trần gian mà về.
- Gỉa sử tôi được làm người trở lại, tôi sẽ sống thế nào?
Tôi lại giả sử vậy thôi, trễ quá rồi.

“Người ta chỉ gặt hái những gì họ đã gieo vãi. Nếu họ gieo vãi nơi thửa ruộng xác thịt, họ sẽ gặt hái được mùa màng băng hoại; nhưng nếu hạt giống gieo xuống của họ là thần trí thì họ sẽ gặt được sự sống trường sinh” (Ga. 6:8).
Bây giờ, tôi đi lối riêng của tôi, lối về mùa màng đã gieo vãi lúc còn sống. Mộ tôi không còn. Chết rồi tôi mới tha thiết nuối tiếc thời gian. Chẳng còn lý do gì để được phép nấn ná về thăm lại chốn xưa. Hạnh phúc hay thở dài. Bất cứ đi về đâu thì bây giờ tôi cũng phải nói lời vĩnh biệt.

MÙA BÁO HIẾU




Tháng 11 đã về. Đối với người Kitô hữu, tháng 11 được gọi là mùa báo hiếu, vì trong tháng này người tín hữu dồn mọi nỗ lực như dâng thánh lễ, hy sinh, việc lành, chăm sóc và thăm viếng mồ mả để cầu nguyện cho những người đã lìa thế.Một điều đáng mừng là trong những ngày nầy, nghĩa trang các giáo xứ tưng bừng hoa nến và dạt dào tình người. Cha cố Phaolô Nguyễn Công Minh đã nói một câu rất hay: “Hãy làm cho nghĩa địa thật đẹp, đến nỗi ai cũng mong ước được ở đó”.

Giáo hội dạy chúng ta rằng: Lá rụng về cội. Hết đời sống tạm, thân xác trở về đất, còn hồn thiêng về với Chúa, nếu chết trong ơn nghĩa Người. Nhưng mấy ai hoàn toàn trong sạch để xứng đáng chiêm ngắm Thiên Chúa là Đấng cực thánh, nên thường linh hồn phải trải qua giai đoạn thanh luyện cho nên trong trắng. Sau khi đã chết, con người không còn điều kiện lập công, phải nhờ đến Giáo hội lữ hành cầu nguyện cho. Hãy cầu nguyện nhiều cho các linh hồn nơi luyện ngục, nhất là những người thân thuộc. Nếu họ đã được giải thoát thì những lời cầu nguyện được chuyển cho những linh hồn khác và các linh hồn đó sẽ cầu bầu cho ta khi ta đã lìa thế.

Mỗi lần viếng Đất Thánh, không những là để cầu nguyện cho các linh hồn đã đành mà còn là dịp ta suy gẫm về cái chết của chính mình, sống sao cho xứng đáng người con cái Chúa, trong khi chờ đợi ngày Chúa gọi ta về với Người. Một nhà tu đức nào đó đã dạy: nghĩ về cái chết không phải là để bi quan, nhưng là để sống cho đúng ý nghĩa cuộc đời hơn, để đặt cho mình những câu hỏi và tìm cho ra ý nghĩa cuộc đời: Tôi từ đâu tới, sẽ đi về đâu, sinh ra để làm gì???

Cha Nguyễn Tầm Thường đã có những suy tư sâu sắc trong những bài suy niệm của mình. Cha nói tới nhân quả bằng những ví dụ rất cụ thể, giúp ta hiểu sự cần thiết của các ơn đại xá và tiểu xá mà ta nhường lại cho các linh hồn:
« Bí tích giải tội tha thứ tội ta phạm. Nhưng bí tích giải tội không cất cái “quả” do nhân kia gây ra. Thí dụ 1: Tôi nói xấu một người. Bao nhiêu người nghe tôi nói, có thành kiến về người đó. Gây ác cảm với người đó. Từ chối không cho người đó công ăn việc làm. Không tin tưởng người đó. Tôi biết mình phạm tội. Tôi đi xưng tội. Tội tôi được tha. Nhưng bí tích giải tội không có năng lực biến đổi hết ý nghĩ xấu trong tâm trí tất cả những người kia. Họ ở khắp nơi như dòng nước chảy thấm xuống ruộng đồng rồi. Họ vẫn ác cảm với người tôi vu khống chuyện xấu mà họ không có. Cái vết thương kia là “quả” do “nhân” tôi gieo, bí tích giải tội không chạy đến từng người và đính chính dùm tôi được. Đó là karma. Đó là nhân quả. Đó là nghiệp báo.
Thí dụ 2: Một người con không học hành, chửi bới bố mẹ. Gây đau khổ cả gia đình. Sau nhiều năm hoang đàng, nay sám hối. Bố mẹ tha thứ, cả dòng họ mừng vui. Nhưng sau nhiều năm không học, cho dù hôm nay sám hối, vẫn không trường nào cho anh mảnh bằng. Không ai cho anh kiến thức. Hậu quả vẫn còn đó.
Thí dụ 3 :Sau năm 1975. Hoàn cảnh đất nước bấy giờ ai cũng nghèo túng. Chồng đi cải tạo. Một mình bà nuôi lũ con chưa đến tuổi khôn. Chỉ vì cãi vã, tức người hàng xóm. Một người bỏ thuốc độc giết con heo nái, cả bày heo con chết theo. Tất cả sự sống của gia đình người ta trông chờ vào mấy con heo… Đàn heo chết. Gia đình suy sụp, con cái nheo nhóc bệnh tật, nợ nần không ngóc lên nổi. Tôi phạm tội ác. Tôi đi xưng tội. Chúa tha tội. Lương tâm tôi đền tội chưa khi bà mẹ kia phải chia các con đi ở đợ cho dân trong làng kiếm miếng ăn? Nếu tôi xưng tội và “đền tội” bằng chục kinh Kính Mừng thì đâu là ý nghĩa đền tội? Bí tích giải tội không làm cho bày heo sống lại. Mất bày heo, con cái họ bệnh tật không thuốc chữa. Bà mẹ đau đớn vì tiếc của rồi phát điên. Hệ lụy này ai mang? Tôi đi xưng tội, nhưng bà hàng xóm kia vấn nghèo khổ, vì không lấy lại được bày heo. Các con bà nheo nhóc không có cơm ăn. Bí tích giải tội không giải quyết hệ lụy nhân quả này. Vậy ai mang? – Luyện tội.
Cha Nguyễn Tầm Thường có 2 bài nói về cái chết rất ấn tượng (ngày lễ vàng, ngày lễ bạc). Chết rồi ai cũng giống nhau, mới chôn thì mùi hôi tanh nồng nặc, chết lâu thì chỉ còn xương, sọ nào cũng giống nhau, chẳng phân biệt nổi sọ của người thông minh hay dốt nát. Nếu trở về thăm mộ vào ngày lễ vàng thì chẳng còn dấu vết gì nữa, chẳng ai biết mình và chẳng còn lưu dấu nơi công trình gì nữa, tựa như vỏ trấu bị gió cuốn và mất hút nơi chân trời.
Kiếp người mong manh là thế đó. Hãy sống tốt giây phút hiện tại. Hãy cảm tạ Thiên Chúa vì những ơn lành Người ban rất dồi dào phong phú. Và quan trọng nhất là hãy gắng tiến lên trên con đường trọn lành, mỗi ngày – từng chút một. Đó là cách tốt nhất để chuẩn bị cho ngày Chúa gọi ta về chung hưởng hạnh phúc với các bậc tổ tiên.

Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2015

Nên thánh




Lời mời gọi nên thánh được gửi đến mọi người: “Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành”. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói: “Thành công lớn nhất trên đời là nên thánh”. Ai cũng biết rằng nên thánh là tác động của ơn thánh, nhưng cũng cần có sự cộng tác bền bỉ của con người.
Người ta thường ví con đường nên thánh là con đường dốc cheo leo nên rất dễ trượt ngã. Điều đó có phần nào đúng, vì con người phải đi ngược dòng đời:sống theo 8 mối phúc thật, kính thờ Thiên Chúa và yêu tha nhân. Đức Phanxicô dạy rằng: những nỗ lực của con người để nên thánh chỉ là hành động mở cửa tâm hồn để cho ơn Thánh hoạt động. Nếu ta quá bận tâm xem mình đã tiến được mấy bước trên con đường tâm linh, nếu ta quá cậy dựa sức riêng mình để tu thân tích đức thì coi chừng lại đi thụt lùi trên con đường nên thánh. Câu chuyện người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện đã nói lên điều đó.

Đã có một thời người ta nghĩ ơn gọi nên thánh chỉ dành cho các bậc tu trì hay các vị tử đạo: thánh hiển tu, thánh ẩn tu, thánh lập dòng, linh mục và nữ tu. Người ta cũng thường nghĩ vị thánh là phải ăn chay nhiệm nhặt và chăm chú cầu nguyện, nhưng mới đây (18.10.2015) Giáo hội mới tuyên phong 2 vị thánh sống đời gia đình là cha mẹ của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Xem ra như vậy, ơn gọi nên thánh không phải là điều xa vời với từng người, nhưng là một ‘thành công’ mà mỗi người phải gắng đạt tới. Mỗi vị thánh không ai giống ai, tùy hoàn cảnh sống và cá tính của riêng mình: nỗ lực tiến lên phía trước, luôn bám chặt vào Chúa.Mỗi ngày hãy kính thờ Chúa nhiều hơn và giúp tha nhân nên tốt hơn.

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

Lạy Ngài, xin cho con được thấy




Câu chuyện người mù Batimê được chữa lành thật sự chỉ là một trong những phép lạ Chúa làm vì lòng thương xót và bày tỏ quyền năng của Người. Câu chuyện ông Batimê trở nên hấp dẫn với chúng ta khi có một sự liên tưởng và so sánh với bệnh mù thiêng liêng, vì quả thật, ai trong chúng ta cũng muốn được sáng mắt tâm hồn.
Thánh Gioan dùng trọn cả chương 9 để kể về câu chuyện Chúa chữa một người mù khác, anh nầy đã được sáng mắt và sáng cả tâm hồn. Anh nhận ra người chữa lành bệnh cho mình phải là một người tốt và thánh thiện, trong lúc các biệt phái và luật sĩ lại là những người mù tâm linh. Câu chuyện người mù Batimê được chữa lành nói với chúng ta nhiều điều kiện để được sáng mắt tâm hồn: niềm tin vào Chúa Giêsu, biết rõ căn bệnh của mình, lên tiếng kêu cứu và kiên trì nài xin lòng thương xót, vứt bỏ áo choàng để tiến về phía Chúa, gặp gỡ đối thoại với Chúa và được chữa lành, đi theo Chúa trên đường Người đi.

Ngày ấy, những người Do Thái đánh giá rất khác nhau về Chúa Giêsu: Con bác thợ mộc, một tiên tri thời danh, ông Gioan Tẩy Giả sống lại, một người giảng dạy có uy quyền, là Beldêbul… vậy mà anh mù đã xác tín rằng: ông Giêsu Nagiaret là con vua Đavit, có nghĩa Ngài là Đấng Cứu Thế mà các tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Nhiều khi người có đạo cũng không có niềm tin vững mạnh vào Chúa Giêsu. Có một linh mục đã nói về Chúa Giêsu Thánh Thể như sau: “Chúa Giêsu Thánh Thể vẫn là Chúa Giêsu đã từng làm biết bao nhiêu phép lạ nơi đất Do Thái, Ngài vẫn là Đấng đầy quyền năng và giàu lòng thương xót. Vấn đề là chúng ta có chạy đến với Ngài hay không, có trao phó cuộc đời và những lo âu cho Ngài định liệu hay không, có nói với Ngài về những điều mình lo lắng hay không. Nếu ta tin nơi Chúa thì Chúa sẽ có cách giải quyết những vấn đề của ta. Dù vấn đề là gì đi nữa thì Chúa vẫn có cách!”

Chính niềm tin vững vàng về con người và quyền năng Chúa Giêsu mà anh mù đã cất tiếng kêu xin lòng thương xót, tiếng kêu của anh làm khó chịu một số người nên họ bảo anh im, nhưng anh càng cố kêu to hơn vì biết rằng chỉ có Chúa mới giải quyết được nỗi khổ và hoàn cảnh đáng thương của anh. Những người la mắng anh không hẳn là vì họ ích kỷ không muốn điều tốt cho anh, nhưng có lẽ vì họ thấy anh kêu xin không đúng chỗ, họ nghĩ rằng ông Giêsu Nagiaret thì làm được chuyện gì ở hoàn cảnh đáng thương nầy, ông ta chỉ là một nhà hùng biện. Bao giờ cũng vậy, niềm tin vào Đức Giêsu vẫn luôn là một thách đố, vì Chúa luôn gây nên sự chia rẽ: có kẻ tin và có kẻ không tin. Noi gương anh mù Batimê, ta hãy giữ vững niềm tin vào Đấng Cứu Thế mà ta đã chọn, dù cho có kẻ ngăn cản và giễu cợt sự phụng thờ mà ta dành cho Thượng Đế của mình.

Một chi tiết mà các nhà chú giải rất thích là “anh mù vất áo choàng một bên, nhảy chồm dậy mà đến cùng Đức Giêsu” (Bản dịch cha Nguyễn Thế Thuấn). Anh mù vứt bỏ lại quá khứ bất hạnh và nghèo nàn của mình, vứt bỏ áo choàng như một tài sản cũ mà bây giờ anh không còn cần, áo choàng là một vật vướng víu để anh tiến nhanh và thanh thoát về phía Chúa. Tiếng Chúa vẫn nói với ta mỗi ngày, cách nầy hay cách khác, mời gọi ta thuộc trọn về Ngài hơn, nhưng nhiều khi ta nặng nề lê bước chứ không dám nhảy chồm lên. Đức Phanxicô nói với chúng ta: Đừng giữ đạo với tâm trạng mệt mỏi nặng nề nhưng hãy thể hiện niềm vui vì được làm con cái Chúa. Đa số chúng ta quá bận rộn với công việc và những nhu cầu cuộc sống đến nỗi không còn nghe tiếng Chúa và không còn giờ để gặp Chúa. Cuộc sống của ta thường được chia thành thời khóa biểu: giờ ăn, ngủ, giải trí, công việc, và thờ phượng. Chúa Giêsu thường chỉ được chúng ta tôn kính trong nhà thờ, hết giờ lễ ta chào Chúa ra về, để Chúa lại đó và hẹn sẽ gặp lại. Thánh Phaolô nói với chúng ta về việc thống nhất đời sống: “Dù ăn, dù uống, dù anh em làm gì đi nữa thì hãy làm vì danh Đức Giêsu”, có nghĩa là hãy sống với Đức Giêsu ngay trong cuộc sống như một người bạn. Hãy năng đến nhà thờ để thăm viếng Chúa Giêsu, tham gia phụng vụ là phương tiện Chúa dùng để trao ban ơn Thánh, tạo lập sự yên tĩnh để thưa chuyện với Chúa đang ngự trong tâm hồn mình, gặp tha nhân là hiện thân của Đấng Vô Hình, hãy làm việc lành trong khả năng có thể… và như vậy ta được Chúa ở cùng mọi ngày, mọi lúc.

Mỗi ngày, hãy khởi đầu lại mối giao hảo thân tình với Chúa Giêsu, vứt bỏ bớt sự lãnh đạm để trò chuyện với Chúa, bỏ bớt đi những sinh hoạt không cần thiết làm cuộc sống quá bận rộn và ồn ào, từ bỏ những lối sống không phù hợp với lời dạy Tin Mừng. Và chính lúc ta nỗ lực tiến đến gặp Chúa thì tâm hồn ta được chữa lành, mắt tâm linh được chữa sáng và được theo Chúa trên con đường Người đi.Thình thoảng hãy lặp lại lời của anh Batimê: "Lạy Ngài, xin cho con được thấy".