Danh sách Blog của Tôi

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

Hãy trả lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa




Tôi xin mượn câu nói Tin Mừng này để nói về hai thái cực vẫn xảy ra trong cuộc sống: có những người chối bỏ vinh quang và hành động của Thiên Chúa và trái lại có những người quy về Chúa những việc không đúng là của Ngài.
Thái độ của những người thứ nhất rất dễ nhận biết. Họ là những người chối bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa: tôn giáo chỉ là một mớ lý thuyết trừu tượng do hàng giáo sĩ bịa đặt để trục lợi, những người có đạo là những kẻ khờ khạo mê tín rất đáng thương. Đối với hạng người nầy, mọi sự xảy ra trong vũ trụ và trong cuộc đời đều là tự nhiên, ngoài vũ trụ vật chất nầy chẳng còn gì để quan tâm, cứ vui hưởng cuộc đời và tích góp bao nhiêu có thể.

Tôi muốn nhấn mạnh đến hạng người thứ hai: họ quy về Chúa những điều không phải là của Ngài. Đây là thái độ của những kẻ có đạo, nhưng lại hiểu sai về Thiên Chúa: tôn giáo như chiếc bùa hộ mệnh, Chúa như ông kẹ.
Khi Chúa Giêsu trách những người thời đó chỉ biết đọc những điềm báo thời tiết mà không tìm hiểu những dấu chỉ thời đại, có linh mục giảng rằng: “Cứ xem những thiên tai lụt lội và động đất thì đủ biết là Thiên Chúa đang thịnh nộ vì tội lỗi của con người!”. Tôi nghĩ Thiên Chúa không trực tiếp hành động như vậy, nếu là vì tội thì tội của ai, tội chung mọi người hay tội của dân chúng vùng bị thiên tai? Người Do Thái cũng đã từng hỏi Chúa Giêsu: vì tội của ai mà người kia mù từ thuở mới sinh? Chúa chỉ nói với ta: “không phải tội của anh ta, cũng không phải tội cha mẹ anh, song để nơi nó công việc Thiên Chúa được hiện tỏ” (Ga 9,3). Đúng ra, chúng ta phải nhìn những thiên tai, tật bệnh, chiến tranh như những dấu chỉ, như một lời cảnh báo rằng: con người đã tàn phá thiên nhiên quá mức, rằng quyền lực sự dữ đang hoành hành trong nhân loại, rằng trời đất đang qua đi… để rồi hãy ăn năn sám hối sống sao cho đẹp lòng Chúa, luôn sống trong tình trạng tỉnh thức sẵn sàng. Thực ra, Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Ngài dùng những dấu chỉ thời đại để giúp ta tin tưởng và bám chặt vào Người hơn, Thiên Chúa không ưa trừng phạt con người một cách trực tiếp, Người luôn tôn trọng trật tự tự nhiên Ngài đã lập ra trong vũ trụ và tôn trọng tự do của con người.
Khi nói về việc cầu nguyện, có linh mục khác lại giảng rằng: “Sống ở trên đời sức khỏe là quý nhất, vì chỉ một cơn bệnh thôi là đã đi đứt cả 100 triệu, bởi đó hãy dành thời giờ để đi dâng lễ và cầu nguyện nhiều với Chúa”. Tôi nghĩ nếu vậy thì những người công giáo phải là những người có tuổi thọ cao nhất và những người bệnh là những người ít đi lễ và đọc kinh cầu nguyện. Không ở đâu trong Tin Mừng mà Chúa hứa rằng ai tin vào Ngài thì sẽ không bị bệnh, được giàu có và bằng an tứ bề. Chúa chỉ nói với ta rằng: Cha trên trời còn tốt hơn cha mẹ trần gian, Ngài ban cho ta những gì tốt nhất, Ngài ban Thánh Thần dồi dào cho kẻ cầu xin (Lc 11,13). Có kẻ xin cho mình được giàu có sung túc, anh ta xin nhưng không siêng năng làm việc, xin mãi không được nên bỏ cả nhà thờ lâu năm vì giận Chúa và thấy rằng mình không được Chúa thương nên chẳng thèm xin gì nữa hết.

Thế đó, nhiều khi ta diễn tả niềm tin một cách quá ngây thơ dễ làm cho người khác mất đức tin và tôn giáo trở nên trò cười cho người ngoại đạo. Ví dụ như trong nhà thờ hôm ấy có người ngoại đạo tham dự, họ sẽ rất dị ứng và thốt lên: “Dọa vậy mà cũng tin!”. Khi nói về cái chết, ta thường nói: “Chúa gọi”, có người ngoại nói rằng: “chết là do chạy xe ẩu, do không giữ gìn sức khỏe, do không hiểu biết về y học để chích ngừa và chữa chạy”. Đúng ra ta phải hiểu 'Chúa gọi' một người trở về với Ngài cách chung chung, còn giờ chết và cách chết là một diễn biến tự nhiên có điều kiện của vũ trụ vật chất.

Hãy trả về cho Thiên Chúa danh dự và vinh quang đáng thuộc về Ngài: vì tình yêu, Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ xinh đẹp nầy, đã dựng nên tôi và ngày ngày vẫn miệt mài chăm sóc ban tặng ta những điều tốt đẹp nhất, hãy tin tưởng và tạ ơn Ngài. Nhưng cũng tránh quy cho Ngài nhiệm vụ chiếc bùa hộ mệnh và bảo hiểm nhân thọ, vì tư tưởng của ta rất khác xa sự khôn ngoan của Ngài.

Thứ Tư, 22 tháng 10, 2014

NGƯỜI ĐI LẠC ĐƯỜNG.



Linh mục Nhân Tài có kể một câu chuyện:

            Có một người lần đầu tiên đi săn và bị lạc trong rừng sâu, đi rất lâu mà vẫn không tìm được đường ra. Đột nhiên anh ta nhìn thấy trong rừng cây phía trước có một người đi ra, anh ta rất mừng chạy đến ôm chầm lấy người ấy, phấn khởi nói to: “Tạ ơn trời đất, tôi bị lạc ở đây đã hơn một ngày rồi, nhìn thấy anh thì tôi phấn khởi”. Không ngờ người ấy lạnh lùng nói: “Có gì mà phấn khởi chứ, tôi bị lạc ở đây đã hơn một tuần rồi”.

            Suy tư:
            1.Người đi săn vì ham đuổi theo con mồi mà quên mất đường về…Có người bận ‘đi săn’ con mồi danh vọng, con mồi quyền lực trong xã hội, thế là họ bị danh vọng quyền lực che lấp đường đến nhà thờ. Có người ham đuổi theo con mồi tiền tài, thế là tiền tài làm cho họ mờ mắt không còn thấy con đường đến với Chúa nữa. Có người ham đuổi theo con đường xác thịt hưởng thụ, làm cho tinh thần và thể xác mất đi sinh khí thần thiêng, thế là họ quanh co trong chốn hồng trần trụy lạc – không có lối ra.

            Lời Chúa là cái la bàn của người Kitô hữu, Lời Chúa dạy ta tìm kiếm danh vọng đích thật là sự khiêm tốn, dùng tiền tài để mua lấy nước trời, tìm kiếm sự thanh cao của các thiên thần.(hết trích).

            2. Chuyện kể rằng: ngày xưa, ở trung tâm thành phố Luân Đôn có treo một chiếc đồng hồ rất lớn để mọi người biết giờ, và cũng mỗi buổi trưa tiếng chuông Truyền Tin của nhà thờ lớn cũng vang lên lúc 12g. Một hôm ông từ nhà thờ tìm đến sở Bưu Điện để chỉnh lại giờ cho chính xác thì được trả lời: “Mỗi ngày tôi cũng chỉnh đồng hồ Bưu Điện theo tiếng chuông của bác”. Thế mới hay người ta thường dựa dẫm nhau chứ không có một chuẩn mực nào cả.
Nhìn vào cuộc sống, đôi lúc ta thấy câu nói của Aristote: “Con người là một hữu thể xã hội” rất đúng. Người ta cứ theo nhau mà làm điều nầy điều nọ dù thấy không hợp lý, nhưng không dám làm khác đi vì sợ bị chê cười: “cóc đua thì nhái cũng đua”!
Này nhé, thử nói về cách ăn mặc của một số chị em. Một số chị em khi thân hình thon trẻ thì không mặc đầm, nay đã già khụ (U 60) lại tranh thủ cho hợp với thời đại, dù thân hình bây giờ thật không phù hợp với loại y phục nầy, thay vì che bớt thì lại bày ra những khiếm khuyết của cơ thể mình cho thiên hạ được tường!

Rồi thử nói về vấn đề các loại tiệc tùng: đám tang, đám cưới, tân gia, giỗ chạp, rửa tội, thôi nôi… của đáng tội là tiệc càng ngày càng lớn, ai sao mình vậy và chẳng ai chịu lép vế ai. Riêng về đám tang thì các linh mục đôi khi cũng lên tiếng: “Bớt ăn uống đi. Có vui vẻ gì đâu mà ăn. Cũng có ăn, nhưng chỉ dành cho bà con ở xa”. Ấy thế mà bây giờ một số giáo xứ, người ta ăn trong những ngày canh thức đã đành, người ta còn ăn 20 – 30 mâm khi đưa tang về, và còn ăn cả chục mâm sau lễ tuần 7. Tuy chẳng vui vẻ gì, nhưng gia chủ thì tha thiết mời, người được mời cũng nể mà đến cho đông đủ… tất cả cũng chỉ vì sợ người ta cười! Điều nguy hiểm là Bệnh “sợ tiếng cười và sĩ diện” lại là một bệnh hay lây. Đôi lúc tôi nghĩ: người Việt Nam mình nghèo vì chuyện ăn uống và bệnh tật nhiều cũng là do ăn nhiều thứ sơn hào hải vị ẩn chứa nhiều hóa chất của những bữa tiệc. (Suy tư 2 là của người lữ hành).

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2014

Dụ ngôn tiệc cưới




Chúa Giêsu đã dùng nhiều hình ảnh để nói về Nước Thiên Chúa. Chúng ta có thể kể đến như: ví dụ hạt cải và men trong bột, người gieo giống, đồng bạc đánh mất, những người thợ làm vườn nho, lưới cá thả xuống biển, tá điền thuê vườn nho...Nước Thiên Chúa ở đây được hiểu là thời đại Thiên Sai, là Giáo hội do Chúa Giêsu quy tụ quanh bàn tiệc Thánh Thể và là hạnh phúc thiên đàng. Mỗi ví dụ về Nước Trời nói lên một khía cạnh nào đó trong một bức tranh quá tuyệt diệu mà đôi mắt phàm nhân của con người chưa từng chiêm ngắm. Xin Chúa cho con hiểu những vị ngọt của Nước Thiên Chúa qua dụ ngôn tiệc cưới Chúa dạy hôm nay.
Trong dụ ngôn tiệc cưới có nhiều hình ảnh nổi bật: Thiên Chúa mời gọi trước một số người nhưng họ lại coi thường lời mời đó vì những tham lam của cải và những bận tâm về cuộc sống, có kẻ lại còn giết chết sứ giả; nhà vua đã nổi cơn thịnh nộ sau khi thời hạn mời gọi đã kết thúc và đã chứng kiến sự kiên quyết chối từ của những người bỏ qua tình thương bao dung của Ngài; tiếp đó, vì không thể để uổng phí những ân lộc đã dọn sẵn và để vui thỏa niềm vui của chính mình, ông chủ mời gọi đủ hạng người vào dự tiệc cưới và phòng tiệc đã đầy người, một món quà nhưng không mà ông chủ đã rộng rãi tặng ban; thế nhưng, có oan uổng quá cho một người đi đường vì nể lời mời của vua mà vào dự tiệc với chiếc áo không đẹp chăng? 

Dụ ngôn này Chúa trực tiếp nói với các thượng tế và kỳ mục, nên điểm nổi bật chính là sự từ chối của những kẻ được mời. Quả vậy, khi ông Gioan Tẩy Giả và Chúa Giêsu kêu gọi sự thống hối để đón nhận Đấng Cứu Thế thì các thượng tế và kỳ mục là những người có phản ứng tiêu cực nhất, họ không ăn năn và thay lòng đổi dạ đã đành mà còn treo Con Thiên Chúa lên cây thập giá. Sau đó, bữa tiệc nước trời được dành cho mọi nước mọi dân (Mt 28,19). Mặc dầu các đầy tớ của vua tha thiết mời gọi, nhưng con người vẫn có quyền tự do quyết định vào hay không vào phòng tiệc, đã vào thì phải có thái độ và y phục xứng hợp với niềm vui của nhà vua, bởi đó nhà vua đã ra lệnh phạt nặng kẻ không mặc y phục lễ cưới. Khi tham dự bữa tiệc Thánh Thể, hãy dọn mình cho xứng đáng, kẻo rước lấy án phạt: nhiều người đã ly dị và đang bồng đèo thế nhưng họ vẫn rước lễ; nhiều người nói chuyện ồn ào trong thánh lễ nhưng vẫn chịu lễ cách vô ý thức. Còn khi tham dự bàn tiệc thiên quốc, con người không còn cơ hội để thay đổi y phục là tình trạng tâm hồn nữa, họ sẽ trải qua cuộc phán xét riêng để chịu thưởng phạt. Phúc cho kẻ nào đã trang bị cho cuộc đời mình chiếc áo bác ái, yêu thương, tử đạo: “Thiên Chúa không thương xót kẻ không biết thương xót, còn ai yêu thương thì coi thường việc xét xử” (Giacôbê 2,13).
Đức Phanxicô luôn nói về niềm vui của những kẻ được đón nhận niềm tin vào Đức Kitô, niềm vui đó không phải là giả tạo nhưng là niêm hạnh phúc đích thực vì được làm con cái Thiên Chúa, vì biết rõ đích đến của cuộc sống là hạnh phúc thiên đàng: Giáo hội chỉ có thể truyền giáo khi các Kitô hữu biết sống niềm vui. Đức Thánh Cha cũng khuyến cáo về sự tham lam của cải và quyền lực luôn cám dỗ con người khước từ sứ điệp Tin Mừng. Thánh Phaolô nói: “Thật vậy, nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. Quả thế, bất cứ ai trong anh em được thanh tẩy để thuộc về Đức Kitô, đều mặc lấy Đức Kitô” (Galat 3,26-27). 

Nói tóm lại, bài Tin Mừng nói lên rằng đời sống ân sủng do Đức Giêsu tái lập trong giao ước mới trước hết được dành cho dân Do Thái là dân riêng Chúa chọn, nhưng sau đó cũng được dành cho các dân ngoại trên khắp địa cầu. Được lãnh nhận đức tin và gia nhập Giáo hội là một hồng ân Chúa ban mà mỗi ngày ta phải dâng lời cảm tạ. Người Kitô hữu đã chết một lần với tội lỗi khi lãnh bí tích rửa tội, nhưng mỗi ngày còn phải cố gắng để nên thánh thiện hơn phù hợp với lời dạy của Tin Mừng, và chấp nhận cuộc thanh luyện cuối cùng là cái chết để tham dự bữa tiệc thiên quốc cách trọn vẹn vì được chiêm ngắm Thiên Chúa trực tiếp, diện đối diện.

Thứ Năm, 2 tháng 10, 2014

Luật yêu thương




Thời sự xã hội và Giáo hội đang nóng lên vì những người Hồi Giáo quá khích Boko Haram (ở Nigiêria) và IS (ở Iran – Syria). Đức Phanxicô kêu gọi thế giới và nhất là cộng đồng Châu Âu đừng làm ngơ trước sự hoành hành và lớn mạnh của những lực lượng nầy, mỗi cá nhân và cộng động phải tích cực tìm ra những biện pháp để các tôn giáo cùng chung sống hòa bình, những biện pháp tối ưu là cùng cầu nguyện và thông qua các đàm phán, vì chiến tranh chỉ đem đến giết chóc và hận thù. Thế nhưng, hiện nay, những cuộc không kích của các nước Mỹ - Pháp – Anh đang diễn ra trên những vùng đất mà lực lượng IS chiếm đóng.
Ngày xưa, thánh Phêrô cũng đã từng rút gươm ra để bảo vệ Chúa Giêsu, nhưng rồi Chúa bảo ông “hãy xỏ gươm vào vỏ, ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Thánh Phêrô đã hành động vì lòng nhiệt thành với Chúa, nhưng theo kiểu tính toán của con người. Thời trung cổ, Giáo hội đã tổ chức nhiều cuộc thánh chiến, dùng chiến tranh để giải quyết những xung đột về vùng đất Thánh; nhưng kể từ thời Đức Phaolô VI đến nay, Giáo hội đã không ngừng đẩy mạnh việc hòa giải và hòa hợp với các tôn giáo, đã nhiều lần hối lỗi vì những lỗi lầm trong quá khứ. Nhiều người đã đặt câu hỏi về Đức Piô XII: “Giáo hội ở đâu khi nạn diệt chủng người Do Thái do Đức Quốc Xã chủ trương đang diễn ra?”- Những tài liệu đã cho biết rằng: Giáo hội đã mạnh mẽ can thiệp bằng văn thư và biện pháp cứu giúp nhiều người Do Thái được trốn thoát.
Cuộc sống thường không tránh khỏi sự va chạm đất đai với người khác, khi họ vượt qua sự tự trọng để tham lam lấn chiếm thêm một chút đất chung làm của riêng. Trường hợp như vậy, nếu mình không lên tiếng là hèn nhát, nhưng đấu tranh thế nào cho hợp tình hợp lý và hợp với giáo lý Chúa dạy? Đôi khi ta thoáng nghĩ: người Kitô thấm nhuần giáo lý sẽ trở nên nhu nhược và hèn yếu trước thế gian, vì đạo Chúa dạy ta phải tha thứ và không được trả thù, phải thực thi bác ái, đừng chống cự với người ác mà phải trốn chạy sang thành khác khi bị bắt bớ ở thành nầy. Thầy chí Thánh đã bằng lòng chịu chết treo trên thập tự mà vẫn tha thứ giữa những tiếng thách thức xuống khỏi thập giá để người khác tin. Thánh Phaolô đã ca tụng đức mến như một điều rất cần thiết của đời sống đạo: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi. Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1Cor 13,1-6).

Thế nhưng, học thuyết xã hội của GHCG dạy ta phải dấn thân xây dựng trái đất nầy cho công bằng, bảo đảm công lý và tình thương, tôn trọng phẩm giá con người và hợp tác giữa các dân tộc; Chúa còn dạy ta phải biết sửa lỗi người anh em, chứ không phải hoàn toàn chịu đựng mọi sự xảy đến như là thánh giá Chúa gửi cho mình… vì như thế sẽ giống như người lính đầu hàng trước khi nổ súng và có thể nói ở đâu có người Kitô thì ở đó chỉ có cam chịu và bất công. Nhưng cách đấu tranh của người Kitô hữu luôn được thực hiện bằng con đường cầu nguyện và đối thoại, khác với cách của người đời là dùng thủ đoạn, bạo lực, chiến tranh và hận thù.

Đối với người Kitô hữu, lề luật tối thượng là tôn thờ Thiên Chúa, bảo vệ sự sống của mình và anh em, của cải vật chất không quan trọng bằng gia tài vĩnh cửu trên trời. Dựa vào thứ tự ưu tiên nầy, ta nhận ra có nhiều sự việc xảy ra thật ra không đáng cho ta bận tâm một cách quá đáng dẫn đến việc mất đức bác ái và có tính cách trả thù. Như vậy, để bảo vệ tài sản mình, người Kitô sẽ dùng đến phương pháp ôn hòa là cầu nguyện, đối thoại và nhờ luật pháp can thiệp, nếu không đạt mục đích thì đành chịu thua thiệt chứ không được trả thù và ghen ghét kẻ làm khốn mình. Các Thánh Tử Đạo đã cam lòng chịu chết mà không oán hận, các tín hữu Irăk đã trốn chạy khỏi các thành phố để tránh bị giết hại, trong lúc luật công bằng cho phép họ trả thù tấn công những kẻ làm khốn mình. Trên truyền thông, chúng ta không đọc được một lời kêu gọi chiến tranh nào của các vị mục tử ở Irăk.