Danh sách Blog của Tôi

Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2015

Nên thánh




Lời mời gọi nên thánh được gửi đến mọi người: “Các con hãy nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành”. Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói: “Thành công lớn nhất trên đời là nên thánh”. Ai cũng biết rằng nên thánh là tác động của ơn thánh, nhưng cũng cần có sự cộng tác bền bỉ của con người.
Người ta thường ví con đường nên thánh là con đường dốc cheo leo nên rất dễ trượt ngã. Điều đó có phần nào đúng, vì con người phải đi ngược dòng đời:sống theo 8 mối phúc thật, kính thờ Thiên Chúa và yêu tha nhân. Đức Phanxicô dạy rằng: những nỗ lực của con người để nên thánh chỉ là hành động mở cửa tâm hồn để cho ơn Thánh hoạt động. Nếu ta quá bận tâm xem mình đã tiến được mấy bước trên con đường tâm linh, nếu ta quá cậy dựa sức riêng mình để tu thân tích đức thì coi chừng lại đi thụt lùi trên con đường nên thánh. Câu chuyện người biệt phái và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện đã nói lên điều đó.

Đã có một thời người ta nghĩ ơn gọi nên thánh chỉ dành cho các bậc tu trì hay các vị tử đạo: thánh hiển tu, thánh ẩn tu, thánh lập dòng, linh mục và nữ tu. Người ta cũng thường nghĩ vị thánh là phải ăn chay nhiệm nhặt và chăm chú cầu nguyện, nhưng mới đây (18.10.2015) Giáo hội mới tuyên phong 2 vị thánh sống đời gia đình là cha mẹ của Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Xem ra như vậy, ơn gọi nên thánh không phải là điều xa vời với từng người, nhưng là một ‘thành công’ mà mỗi người phải gắng đạt tới. Mỗi vị thánh không ai giống ai, tùy hoàn cảnh sống và cá tính của riêng mình: nỗ lực tiến lên phía trước, luôn bám chặt vào Chúa.Mỗi ngày hãy kính thờ Chúa nhiều hơn và giúp tha nhân nên tốt hơn.

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

Lạy Ngài, xin cho con được thấy




Câu chuyện người mù Batimê được chữa lành thật sự chỉ là một trong những phép lạ Chúa làm vì lòng thương xót và bày tỏ quyền năng của Người. Câu chuyện ông Batimê trở nên hấp dẫn với chúng ta khi có một sự liên tưởng và so sánh với bệnh mù thiêng liêng, vì quả thật, ai trong chúng ta cũng muốn được sáng mắt tâm hồn.
Thánh Gioan dùng trọn cả chương 9 để kể về câu chuyện Chúa chữa một người mù khác, anh nầy đã được sáng mắt và sáng cả tâm hồn. Anh nhận ra người chữa lành bệnh cho mình phải là một người tốt và thánh thiện, trong lúc các biệt phái và luật sĩ lại là những người mù tâm linh. Câu chuyện người mù Batimê được chữa lành nói với chúng ta nhiều điều kiện để được sáng mắt tâm hồn: niềm tin vào Chúa Giêsu, biết rõ căn bệnh của mình, lên tiếng kêu cứu và kiên trì nài xin lòng thương xót, vứt bỏ áo choàng để tiến về phía Chúa, gặp gỡ đối thoại với Chúa và được chữa lành, đi theo Chúa trên đường Người đi.

Ngày ấy, những người Do Thái đánh giá rất khác nhau về Chúa Giêsu: Con bác thợ mộc, một tiên tri thời danh, ông Gioan Tẩy Giả sống lại, một người giảng dạy có uy quyền, là Beldêbul… vậy mà anh mù đã xác tín rằng: ông Giêsu Nagiaret là con vua Đavit, có nghĩa Ngài là Đấng Cứu Thế mà các tiên tri đã loan báo từ ngàn xưa. Nhiều khi người có đạo cũng không có niềm tin vững mạnh vào Chúa Giêsu. Có một linh mục đã nói về Chúa Giêsu Thánh Thể như sau: “Chúa Giêsu Thánh Thể vẫn là Chúa Giêsu đã từng làm biết bao nhiêu phép lạ nơi đất Do Thái, Ngài vẫn là Đấng đầy quyền năng và giàu lòng thương xót. Vấn đề là chúng ta có chạy đến với Ngài hay không, có trao phó cuộc đời và những lo âu cho Ngài định liệu hay không, có nói với Ngài về những điều mình lo lắng hay không. Nếu ta tin nơi Chúa thì Chúa sẽ có cách giải quyết những vấn đề của ta. Dù vấn đề là gì đi nữa thì Chúa vẫn có cách!”

Chính niềm tin vững vàng về con người và quyền năng Chúa Giêsu mà anh mù đã cất tiếng kêu xin lòng thương xót, tiếng kêu của anh làm khó chịu một số người nên họ bảo anh im, nhưng anh càng cố kêu to hơn vì biết rằng chỉ có Chúa mới giải quyết được nỗi khổ và hoàn cảnh đáng thương của anh. Những người la mắng anh không hẳn là vì họ ích kỷ không muốn điều tốt cho anh, nhưng có lẽ vì họ thấy anh kêu xin không đúng chỗ, họ nghĩ rằng ông Giêsu Nagiaret thì làm được chuyện gì ở hoàn cảnh đáng thương nầy, ông ta chỉ là một nhà hùng biện. Bao giờ cũng vậy, niềm tin vào Đức Giêsu vẫn luôn là một thách đố, vì Chúa luôn gây nên sự chia rẽ: có kẻ tin và có kẻ không tin. Noi gương anh mù Batimê, ta hãy giữ vững niềm tin vào Đấng Cứu Thế mà ta đã chọn, dù cho có kẻ ngăn cản và giễu cợt sự phụng thờ mà ta dành cho Thượng Đế của mình.

Một chi tiết mà các nhà chú giải rất thích là “anh mù vất áo choàng một bên, nhảy chồm dậy mà đến cùng Đức Giêsu” (Bản dịch cha Nguyễn Thế Thuấn). Anh mù vứt bỏ lại quá khứ bất hạnh và nghèo nàn của mình, vứt bỏ áo choàng như một tài sản cũ mà bây giờ anh không còn cần, áo choàng là một vật vướng víu để anh tiến nhanh và thanh thoát về phía Chúa. Tiếng Chúa vẫn nói với ta mỗi ngày, cách nầy hay cách khác, mời gọi ta thuộc trọn về Ngài hơn, nhưng nhiều khi ta nặng nề lê bước chứ không dám nhảy chồm lên. Đức Phanxicô nói với chúng ta: Đừng giữ đạo với tâm trạng mệt mỏi nặng nề nhưng hãy thể hiện niềm vui vì được làm con cái Chúa. Đa số chúng ta quá bận rộn với công việc và những nhu cầu cuộc sống đến nỗi không còn nghe tiếng Chúa và không còn giờ để gặp Chúa. Cuộc sống của ta thường được chia thành thời khóa biểu: giờ ăn, ngủ, giải trí, công việc, và thờ phượng. Chúa Giêsu thường chỉ được chúng ta tôn kính trong nhà thờ, hết giờ lễ ta chào Chúa ra về, để Chúa lại đó và hẹn sẽ gặp lại. Thánh Phaolô nói với chúng ta về việc thống nhất đời sống: “Dù ăn, dù uống, dù anh em làm gì đi nữa thì hãy làm vì danh Đức Giêsu”, có nghĩa là hãy sống với Đức Giêsu ngay trong cuộc sống như một người bạn. Hãy năng đến nhà thờ để thăm viếng Chúa Giêsu, tham gia phụng vụ là phương tiện Chúa dùng để trao ban ơn Thánh, tạo lập sự yên tĩnh để thưa chuyện với Chúa đang ngự trong tâm hồn mình, gặp tha nhân là hiện thân của Đấng Vô Hình, hãy làm việc lành trong khả năng có thể… và như vậy ta được Chúa ở cùng mọi ngày, mọi lúc.

Mỗi ngày, hãy khởi đầu lại mối giao hảo thân tình với Chúa Giêsu, vứt bỏ bớt sự lãnh đạm để trò chuyện với Chúa, bỏ bớt đi những sinh hoạt không cần thiết làm cuộc sống quá bận rộn và ồn ào, từ bỏ những lối sống không phù hợp với lời dạy Tin Mừng. Và chính lúc ta nỗ lực tiến đến gặp Chúa thì tâm hồn ta được chữa lành, mắt tâm linh được chữa sáng và được theo Chúa trên con đường Người đi.Thình thoảng hãy lặp lại lời của anh Batimê: "Lạy Ngài, xin cho con được thấy".



Thứ Năm, 22 tháng 10, 2015

Dấu chỉ thời đại




Chúa Giêsu trách những người Do Thái khi họ rất thông thạo để đọc những dấu chỉ trời đất, nhưng lại không biết nhận ra những dấu chỉ thời đại. Ngay cả hôm nay, Chúa vẫn nói với từng người chúng ta câu hỏi đó: “tại sao chúng con quan tâm đến những dự đoán chính trị và thời cuộc mà lại ít quan tâm đến những dấu chỉ thời đại, là những tiếng nói yêu thương của Ta đang thì thầm với con?”.

Người Do Thái không nhận ra hồng ân của họ là Đức Giêsu đang ở giữa họ, với những lời khôn ngoan được Ngài rao giảng và với quyền năng được thực hiện trước mắt họ, nhưng họ vẫn không thay đổi. Chúa nói với người thiếu phụ bên bờ giếng Giacop: “Nếu chị biết nhận ra hồng ân của Thiên Chúa và Đấng đang nói với chị là ai, thì hẳn chị đã xin Người ban cho nước hằng sống” (Ga 4,9). Nhiều lần Chúa trách dân Do Thái vì sự cứng lòng của họ, Chúa kể ra gương nữ hoàng phương nam đã tìm đến nghe lời khôn ngoan của vua Salomon, gương của dân thành Ninivê khi nghe tiên tri Giona nói về sự sám hối, và Chúa đã than khóc cho thành Giêrusalem: "Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu” (Mt 23,37).

Mở mắt to để thấy, mở tai to để nghe, đó phải là thái độ của Kitô hữu. Thiếu bén nhạy về mặt tôn giáo cũng là cơn bệnh của con người thời nay. Con người thường cho rằng mọi điều đang xảy ra là tự nhiên, chẳng có gì phải suy nghĩ và chẳng có gì phải tạ ơn. Thái độ vô ơn với muôn hồng ân ta lãnh nhận hằng ngày trực tiếp hay gián tiếp từ Thiên Chúa sẽ làm cho tâm hồn ta nghèo nàn.Thiên Chúa vẫn nói với con người hôm nay qua các dấu chỉ, nhưng con người thường nghĩ rằng Thiên Chúa đang bận rộn và Ngài cũng mang bệnh vô cảm như con người thời đại. Hãy nghĩ lại đi, Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, Ngài luôn dõi mắt nhìn và luôn ra đi tìm kiếm con chiên bị lạc mất. Thiên Chúa không ngừng thánh hóa con người bằng những biến cố cuộc đời. Thật khó để nhận ra tình thương Chúa và đọc được dấu chỉ khi bị bệnh nan y hoặc khi gặp hoạn nạn, đó dường như là lúc Chúa đang ẩn mình sau lớp sương mù dày đặc. Có người kia bị bệnh nan y, một người bạn ở rất xa nhận được tin qua điện thoại, anh nầy thốt lên: “Tôi cũng mong được như anh ấy, vì có thời giờ mà chuẩn bị!”. Thật là một kiểu nói lạ lùng nhưng cũng có lý của nó khi  nghĩ về chuyện đời nầy – đời sau.

Có những Kitô hữu vô thần thực hành, là những người tin có Thiên Chúa, nhưng Ngài ở rất xa và không còn làm việc, và vị Thiên Chúa đó không liên quan gì đến cuộc sống của họ. Còn người Kitô hữu thực hành thì tin rằng: Thiên Chúa chúng ta thờ là Đấng dựng nên vũ trụ và không ngừng chăm sóc nó. Ngài là một người Cha đầy tình yêu thương, yêu thương cả loài người và từng người. Ngài khắc tên từng người trong bàn tay mình, Ngài yêu họ từ muôn thuở và cho đến mãi ngàn đời. Thiên Chúa đã làm người để ở lại cùng nhân loại cho đến ngày tận thế.Tin vào Thiên Chúa có nghĩa là bước theo một người có tên là Giêsu, sống thân tình với Ngài như một người bạn, tìm sự trợ giúp nơi Ngài như một Đấng đầy quyền năng, sống và chết như Ngài vì Ngài là Đấng thánh của Thiên Chúa.
Ai đó đã từng nói: Khi đối diện với niềm tin vào Chúa quan phòng, con người thường chỉ có hai thái độ: hoặc tin Thiên Chúa có mặt trong mọi sự hoặc Ngài không làm gì hết.

Đọc dấu chỉ của Thiên Chúa qua những điềm lành nhưng cả những điềm dữ nữa. Thiên Chúa không tạo nên sự dữ và sự chết, nhưng chúng là hậu quả của sự ác và sự tội. Thiên  Chúa cho phép sự dữ xảy đến và Ngài dùng quyền năng và tình yêu để ban cho những kẻ Ngài yêu muôn vàn sự lành. Điều quan trọng là biết gẫm suy và nhìn các biến cố ‘không may’ với con mắt của Chúa. Ví dụ, có người nhìn biến cố 75, biến cố 11.9.2001, đại dịch Sida… như là tiếng Chúa gửi đến con người, giúp họ cảnh tỉnh và thay đổi cuộc sống.

“Nguyện xin Đức Khôn Ngoan hằng ngự bên tòa Chúa đến giúp đỡ và làm lụng với con. Đức Khôn Ngoan am tường tất cả, sẽ hướng dẫn con trong mọi hành vi, hầu con biết điều đẹp thánh ý”. Chính Đức Khôn Ngoan sẽ giúp con người phân biệt tiếng nói của ma quỷ hay tiếng nói của Chúa, thúc đẩy ta mở cửa tâm hồn cho ơn Thánh Chúa hoạt động, và chính ơn Thánh sẽ làm cho ta tiến bước trên con đường trọn lành.

Thứ Tư, 14 tháng 10, 2015

Hãy tỉnh thức




Chúng ta đang sống trong một thời đại mà việc chia sẻ tư tưởng diễn ra nhanh chóng và dễ dàng, nhờ các mạng thông tin và nhờ việc đi lại – du lịch, kể cả ra ngoại quốc. Bởi vậy các trào lưu tư tưởng và những quan niệm sống cứ như những đợt sóng liên tục vỗ vào hồn ta: tương đối hóa về luân lý và về tôn giáo. Lời Chúa nói với chúng ta thật đáng suy nghĩ: Hãy tỉnh thức, hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ. Tôi xin kể một vài con sóng nhỏ, nhưng đôi khi cũng làm hồn ta bị ngộp.

Đạo nào cũng tốt. Trước công đồng Vaticanô 2, Giáo hội quan niệm một cách cứng nhắc rằng: chỉ có những ai gia nhập đạo Chúa mới được ơn cứu rỗi, và thời đó việc truyền giáo – rửa tội để cứu vớt các linh hồn diễn ra một cách cấp bách. Nhưng sau nầy Giáo hội dạy ta phải tôn trọng các tôn giáo bạn và dạy rằng: các tôn giáo khác cũng chứa một phần chân lý và những người sống với lương tâm ngay thẳng dù không biết đến Chúa Kitô thì vẫn được hưởng công ơn cứu độ mà Con Thiên Chúa mang lại (áp dụng cho những người không nghe biết về đạo hoặc không có điều kiện gia nhập đạo). Nhưng có người lại  quá rộng rãi khi nói rằng "chẳng cần phải gia nhập đạo Công giáo mới được rỗi linh hồn". Hãy tỉnh thức, vì Giáo Hội dạy rằng: chỉ có Danh Giêsu mới mang lại ơn cứu độ, mọi hoạt động của Giáo hội phải nhằm giới thiệu Thiên Chúa cho con người, như là một sự thiện tốt lành nhất. Và cũng hãy cảnh giác thái độ ỷ lại của một số người cố tình không tìm hiểu và lãnh nhận bí tích rửa tội dù có điều kiện và đã nghe biết về đạo.

Thực hành đạo. Nhiều người có dịp đi Pháp. Họ thường kể về lối sống đạo lạnh nhạt ở đó: các chủng viện, tu viện và nhà thờ nguy nga bị bỏ hoang; giáo dân chỉ đến nhà thờ khi rửa tội, hôn phối và chết. Họ có đạo nhưng không hành đạo. Mỗi lần nghe chuyện, lòng ta cũng có ít nhiều dao động và suy nghĩ: tại sao họ được mệnh danh là Trưởng Nữ của Giáo hội mà nay lại đến mức đó?- Ta nhớ lại, vào thế kỷ 18 – 19, ở Pháp có phong trào tục hóa: bài giáo sỹ, bôi bác tôn giáo như là rào cản tự do con người, đề cao nếp sống hưởng thụ và thực dụng. Có người bạn nói với tôi rằng: “Đạo nào cũng được, miễn là họ là người thực hành đạo, vì nhiều người có đạo mà không hành đạo, thành ra là bôi bác đạo”.- Đức tin là hạt giống, là ngọn nến mà ta phải chăm sóc và nuôi dưỡng để nó lớn lên. Đừng sợ khi ai đó bỏ đạo, tốt hơn là cậy dựa vào Chúa để khỏi sa chước cám dỗ. Một vị Thánh nào đã nói: kẻ bỏ bê việc cầu nguyện thì đã bỏ ngỏ linh hồn cho ma quỷ, việc sa ngã là chắc chắn, chỉ là sớm hay muộn.

Có kẻ cho rằng: nghèo mới giữ đạo, còn giàu lên là mất đạo; hoặc ‘lạc hậu thì còn đạo, văn minh là bỏ đạo’. Luận điệu nầy ẩn chứa một suy luận sâu xa: tôn giáo phát sinh là do nỗi sợ và là sự lầm lạc của lý trí, tôn giáo là liều thuốc phiện của một giai cấp sáng chế ra để thống trị. Không phải thế, đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng mà con người phải cám tạ suốt đời. Niềm vui vì được làm con cái Thiên Chúa phải chiếu tỏa trên khuôn mặt và trong cuộc đời người Kitô hữu, trong các mối giao tiếp và cả những lúc đen tối nhất của cuộc đời, vì ta được Chúa yêu thương và đồng hành.

Trong thời gian vài năm trở lại đây, khoảng vài chục nước ở Âu Châu đã chấp nhận hôn nhân đồng tính, họ lý luận rằng: đó là một khuynh hướng tự nhiên của một số người, xã hội phải tôn trọng và chấp nhận họ như là một đòi buộc của nhân quyền. Một người bạn của tôi có nói: “Thật là buồn cười khi họ nêu ra 4 chữ ‘khuynh hướng tự nhiên’ trong vấn đề hôn nhân đồng tính, vì bất cứ người đàn ông nào dù đã có gia đình vẫn ‘thích’ một người đàn bà khác, đó vẫn là khuynh hướng tự nhiên. Điều quan trọng là tiết chế và tập luyện để có một lối sống lành mạnh theo luân lý”. Ta thử nghĩ xem: nếu xã hội tôn trọng những khuynh hướng tự nhiên nơi ta như trộm cắp, bạo lực, ích kỷ …thì xã hội nầy đã loạn mất rồi!
  Nhiều người có cơ hội học thần học với một số giáo sư có đầu óc ‘thông thoáng’ đã nói: “ở VN thì việc ly hôn khó chứ ở bên tây, giáo hội giải quyết tiêu hôn dễ dàng lắm!”, và dĩ nhiên lòng ta cảm thấy hoang mang. Nhưng trong cuộc họp báo đầu tiên, ĐHY André Vingt-Trois, TGM Paris, chủ tịch thừa ủy của Thượng HĐGM, cảnh giác giới báo chí rằng: ”Nếu quí vị đến Roma chờ đợi những thay đổi ngoạn mục về đạo lý của Giáo Hội với Thượng HĐGM này liên quan đến những người ly dị tái hôn, thì quí vị sẽ thất vọng!..ĐHY tái khẳng định rằng Thượng HĐGM này tìm kiếm một đường lối tiếp cận mục vụ cho những hoàn cảnh khác nhau của gia đình.

Thật đáng mong ước và cần thiết là các Kitô hữu hãy nỗ lực tìm hiểu giáo lý và chuyên tâm cầu nguyện, hầu có thể tỉnh thức trước những luận điệu mang tính tương đối luân lý không ngừng xô đẩy cuộc đời ta. Hãy là những Kitô hữu nhiệt tình chứ không phải là Kitô hữu ‘hâm hâm dở dở’ kẻo bị Chúa mửa ra và bị loại trừ khi đến giờ Ngài viếng thăm đời ta.

Thứ Bảy, 10 tháng 10, 2015

Tuân giữ Lời Chúa



Tin Mừng Chúa Nhật 6 PS A


Chỉ trong một đoạn Tin Mừng (Ga 14,15-21) thôi mà Chúa đã lặp lại hai lần câu: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hãy tuân giữ lệnh truyền của Thầy”, chứng tỏ đây là một điều hết sức quan trọng.

Có một vị linh mục nọ được thuyên chuyển về một xứ đạo lớn. Thánh lễ đầu tiên, Ngài giảng một bài giảng rất hùng hồn về đức yêu thương và rất được giáo dân mến phục. Nhưng đến ngày hôm sau, Ngài lại giảng lại chính bài giảng đó. Ngày thứ 3 cũng thế. Và đến ngày thứ tư, cũng vẫn bài giảng đó được cha xứ giảng lại một cách rất hùng hồn. Giáo dân quá ngạc nhiên mới hỏi cha xứ tại sao cứ giảng mãi một bài đó, phải thay bài khác thì đỡ chán hơn. Ngài mới trả lời: “Vì tôi thấy anh em chưa thực hiện được những đòi hỏi của Lời Chúa, nên tôi thấy cần phải lặp lại”. Câu chuyện trên nêu lên một hiện trạng đang xảy ra giữa chúng ta: chúng ta nghe Lời Chúa nhiều, nhưng chưa thực hiện được bao nhiêu.

Một bệnh nhân phải nằm viện lâu ngày. Một hôm có người hộ lý phân phát chăn mền cho các bệnh nhân rất tử tế và khiêm tốn. Thấy chuyện lạ, người bệnh đó mới hỏi: “Có phải cô là người Công giáo không?” – Đúng vậy, người hộ lý trả lời. Nhưng sao bà lại biết tôi? Người bệnh đó trả lời: “Vì những người hộ lý thường ném chăn và mùng vào mặt chúng tôi một cách vô ý thức, nhưng thái độ của cô lại tôn trọng người bệnh, thế nên tôi mới hỏi”.

Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, đất nước còn nghèo khổ, muốn mua một két bia chai phải ra tận xã Daklao. Một hôm đang dùng tiệc mà lại thiếu bia để uống, chủ nhà bảo con chạy ra mua một két bia để đãi khách. Khi lấy tiền để trả, người con mới chợt nhớ là quên mang tiền. Người chủ quán mới hỏi: “Có phải người ở giáo xứ Vinh Hương không? Ấy vậy thì cứ mang về đi, hôm nào ra trả tiền”. Ngày ấy, người có đạo rất có uy tín; người chủ quán tin rằng người có đạo sẽ mang tiền trả cho mình một cách tử tế…và chuyện đã xảy ra đúng như vậy.


Mahatma Gandhi đã nói một câu rất chí lý: “Tôi tin đạo, nhưng không tin người có đạo”, vì ông thấy người có đạo kỳ thị người da màu, gây nên nhiều bất công và bóc lột người Ấn Độ. Đức Phaolô VI cũng có một câu bất hủ: “Thời đại ngày nay, con người không muốn nghe những thầy dạy mà chỉ tin vào những nhân chứng; nếu họ có nghe thầy dạy là vì thầy dạy đó cũng là nhân chứng”. Trong một hội nghị bàn về những phương tiện và kế hoạch để truyền giáo, các nhà diễn thuyết Châu Âu đưa ra đề nghị phải áp dụng những tiến bộ khoa học như truyền thanh, truyền hình, internet, phân phát Kinh Thánh… thì một đại biểu của Ấn Độ chia sẻ kinh nghiệm của chính dân tộc mình: “Nếu muốn truyền đạo cho một làng nào đó, chúng tôi gửi đến đó một gia đình có đạo, và qua cách sống nhân chứng của gia đình này, chúng tôi đã có nhiều người trở lại đạo”.


Đã nhiều lần Chúa nói rõ ràng về việc phải thực hành giới luật ‘Mến Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình’. Chúa bảo: chỉ có ai đem lệnh truyền của Chúa ra thực hiện mới là người khôn ngoan, mới đáng được vào Nước Trời, chứ không phải là kẻ chỉ biết nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa…”. Hãy sống thế nào để người ta nhận ra khuôn mặt nhân từ và yêu thương của Thiên Chúa, để tạo được uy tín cho người có đạo.

Tỉnh thức và sẵn sàng


Tin Mừng Chúa nhật 32 năm A (Mt 25,1-13)

Người khôn ngoan là người biết chuẩn bị cho tương lai. Người ấy biết rõ mình sẽ đi về đâu sau cái chết, hành trang mang theo là gì.

Câu kết của bài Tin Mừng Chúa nhật 32 năm A (Mt 25,1-13) đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Anh em hãy sẵn sàng, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào”. Xem ra câu này không ăn nhập với câu chuyện đám cưới được kể ở phần đầu, vì dầu sao ngày cưới đã được ấn định và giờ đã được phỏng đoán. Điều quan trọng Chúa muốn nhấn mạnh ở đây không phải là sự tỉnh thức cho bằng sự sẵn sàng, vì trong dụ ngôn 10 cô trinh nữ thì mọi người đều ngủ cả - có ai thức để chờ đón chú rể đâu, điều khác biệt của những cô khôn ngoan là họ đã mang thêm bình dầu, đã dự phòng cho tương lai.

Người khôn ngoan là người biết chuẩn bị cho tương lai. Người ấy biết rõ mình sẽ đi về đâu sau cái chết, hành trang mang theo là gì. Sống trên đời, có những người chạy theo đam mê tiền bạc và danh vọng đến nỗi quên mất đời sống linh hồn. Sắc đẹp thì mau qua, danh vọng thì hão huyền, cuộc sống trần gian là thời gian chuẩn bị, ta chẳng mang được gì theo khi đã xuôi tay nhắm mắt. Bao nhiêu kiến thức, của cải, tiếng tăm, tình cảm mà ta đã vất vả ngược xuôi để đấu đá với đời, khoe khoang và vênh váo, lo âu và tức tối… bây giờ chỉ là hư vô, chẳng ai còn nhớ đến mình!


Chỉ còn một điều tồn tại là ‘linh hồn bất tử’, là tình thương ngàn đời Chúa dành cho người công chính. Như vậy, hành trang duy nhất ta cần theo đuổi là trở thành con cái sự sáng: kết hợp, yêu mến, phụng sự Thiên Chúa trên cõi đời nầy – còn mọi sự khác chỉ là phụ thuộc. Hãy luôn cầu xin: “lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” và sẵn sàng tuân phục Thánh ý Chúa.

Khi ban tự do cho con người, Thiên Chúa như tự giới hạn quyền năng của mình mà phải chịu đựng những phản bội của con người. Ađam – Eva đã hái trái cấm để muốn được thông minh bằng Đức Chúa Trời, bất chấp lệnh truyền của Chúa và không muốn lệ thuộc vào Chúa. Dân Chúa chọn luôn luôn bị cám dỗ thờ cúng các thần của dân ngoại, không muốn phụng thờ Yavê như điều lệ của giao ước Sinai; họ đã giết các tiên tri, giết luôn cả Người Con của ông chủ, vì họ không muốn nghe nói về việc trung thành với lề luật. Những người đương thời với chúng ta thì sao? Phần đông họ không muốn đón nhận đức tin Kitô giáo, họ chống lại luật luân lý Giáo hội về sự sống, hôn nhân, về công bằng xã hội; họ chủ trương thuyết tương đối về luân lý: luân lý của số đông; họ lấy lợi lộc trần gian và lối sống hưởng thụ là nguyên tắc hành xử, theo đuổi một lối sống dễ dãi và buông thả về luân lý; họ trưng ra nhân quyền để vận động pháp luật hợp thức hóa lối sống của họ; còn nhiều nơi khác, họ cô lập và ‘bắt bớ’ các Kitô hữu – với tội danh cản bước tiến xã hội. Và họ sống như không có đời sau, không hề chuẩn bị gì cho nó cả.

Có câu chuyện kể rằng: Có một người nông dân nghèo phải thuê đất của chủ để canh tác, anh ta ước ao có đất riêng để không phải nộp tiền đất mỗi năm. Ước mơ đó thành hiện thực, vì bà chủ bán bớt số đất mình có, anh ta tậu được 4 ha và ngay trong vụ thu hoạch đầu tiên, anh đã bội thu và rất sung sướng với hoàn cảnh của mình. Thế nhưng, có một người từ nước Nga tới và nói với anh: “Nhìn thấy cảnh sống thảm hại của anh thấy mà thương, ở bên Nga, đất đai màu mỡ và rộng rãi, mỗi người thường có vài chục hecta”. Anh ta ra đi với người ấy và rất thành công, trở nên giàu có bội phần. Được một thời gian, có người ghé nhà anh và mách cho anh một vùng đất trù phú mênh mông mà anh có thể mua được với 1000 rúp và một ít quà cho dân làng. Anh ta mua quà và đem tiền đến gặp viên tù trưởng. Đúng như lời người người kia kể, anh có thể tậu số đất anh đi được trong một ngày với giá tiền rẻ mạt là 1000 rúp, với điều kiện anh phải trở về điểm xuất phát trước lúc mặt trời lặn. Đêm đó, anh không ngủ được vì vui sướng và tính toán làm sao để tậu cho được nhiều nhất, anh ra đi từ sáng sớm về phía đông, quẹo qua hướng nam – tây và bắc… nhưng anh đã hộc máu mà chết mà không kịp trở về điểm khởi hành cho kịp những tia sáng cuối ngày, sau một ngày quá vất vả, giữa tiếng reo hò cổ vũ của một nhóm người trong bộ tộc!

Cha mẹ đầu tư tiền bạc cho con cái học hành, hầu sau này kiếm được việc làm và có một cuộc sống dễ dàng. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ. Phải thúc giục con cái sống tốt, sống đúng tư cách con cái Thiên Chúa. Ngoài việc học kiến thức, phải trau dồi nhân đức, học biết chân lý và thường xuyên cầu nguyện. Chỉ khi có định hướng đúng, có nhân cách và cư xử có tình người, con cái chúng ta mới đứng vững – dù trải qua những bất trắc cuộc đời.

Có một người chán sống và muốn kết liễu cuộc đời mình. Ông gặp một vị tu sĩ và nói lên ý định của mình. Vị tu sĩ mới hỏi: “Ông có biết đứa trẻ sinh thiếu tháng là thế nào không? Nó èo ọt vì chưa được chuẩn bị đủ để vào đời, người ta phải nuôi nó trong lồng kính để nó khả dĩ đủ điều kiện sống trong môi trường cuộc sống. Ông cũng vậy, ông không biết rõ cuộc sống mà ông sắp bước vào sau cái chết; vì nếu biết rõ, chắc chắn ông không muốn tự kết liễu đời mình sớm: cuộc sống này là để chuẩn bị cho đời sau.

SỬA LỖI ANH EM








Tin Mừng Chúa nhật 23 TN A (Mt 18,15-20)
Chúng ta dễ có cảm tưởng rằng việc sửa lỗi anh em được nói tới trong Lời Chúa hôm nay là một lời khuyên, thực hiện được thì tốt - còn không làm cũng không sao. Nhưng không phải thế, đây đúng là một lệnh truyền: “Nếu anh em con phạm tội, hãy đi sửa lỗi nó…”

Trong vài thập niên gần đây, các nhà khoa học đang ra sức nghiên cứu để tìm ra nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió và sóng biển – để thay thế cho nguồn năng lượng dầu mỏ đang gần cạn kiệt. Người ta ước tính có lẽ chừng 50 năm nữa, xăng dầu dùng cho máy móc xe cộ sẽ rất hạn chế, vì nguồn dự trữ trong lòng đất đã hết và chúng không còn khả năng tái tạo, và có lẽ lúc đó xe cộ máy móc sẽ im lìm bất động – chất thành đống. Nguồn năng lượng của mặt trời, gió và sóng biển có thể nói là vô tận, vì chúng luôn được tái tạo không ngừng.

Hội Thánh Công Giáo có đặc tính là thánh thiện vì 3 yếu tố: có Chúa Giêsu là đầu và Ngài là Thánh, Giáo hội có mục đích giúp con người đạt tới sự thánh thiện và Giáo hội quản lý những mầu nhiệm thánh – có sức cải hóa con người nên thánh. Tuy nhiên, Giáo hội đó cũng bao gồm cả những tội nhân, có tôi và anh, chúng ta đang trên hành trình tiến về quê trời. Giáo hội bao gồm những tội nhân cần cải hóa và tái tạo lại cho tinh tuyền trong ân sủng qua bí tích Rửa tội và Hòa giải, và Giáo hội đó cũng bao gồm mọi phần tử khác – đang trải qua những cuộc chiến giữa thiện và ác ngay chính trong bản thân mình.

Lời Chúa trong sách tiên tri Êdêkiel nói thật rõ ràng: “Nếu kẻ gian ác phạm tội mà ngươi không chịu nói cho nó biết và nó chết đi thì ngươi cũng bị hỏi tội; nhưng nếu ngươi nói cho nó biết tội lỗi nó phạm mà nó vẫn không nghe, thì ngươi không bị hỏi tội nữa” (33,7-9). Chúng ta chẳng thích sửa lỗi ai, vì sự thường người ấy khó chấp nhận sự sai lỗi của họ, nên họ sẽ tức giận và bới móc lầm lỗi của ta. Nhưng đây là việc cần thiết để tạo một năng lực mới cho Giáo hội và tập thể mình đang sống. Trong 10 thế kỷ đầu, Giáo hội dường như sống trong tình huynh đệ tuyệt hảo đó, nên đã phát triển rất nhanh. Từ con số 12 tông đồ, Giáo hội đã rao truyền Tin Mừng đến khắp năm châu, đã vượt qua những cuộc bắt bớ đẫm máu đến gần tuyệt chủng.

Chúa Giêsu đã nêu lên những nguyên tắc cơ bản trong việc cảm hóa người khác: tế nhị, khiêm tốn, kiên nhẫn và kèm theo lời cầu nguyện. Bước đầu tiên là giữa hai người để tránh việc làm mất mặt nhau; nếu không được thì đem thêm vài ba người, để có tính cách khách quan và có tính cách cộng đoàn; nếu người anh em vẫn không nghe thì mới đưa ra cộng đoàn; và nếu nó cũng không nghe thì được kể như người ngoại. Bởi đó, những thư nặc danh, rải truyền đơn, đưa lên mạng đều là những hình thức mạ lỵ - không có tính cách xây dựng, trái với tinh thần Chúa dạy: đối thoại thân tình và kín đáo.

Nhiều người có dịp tiếp xúc gần gũi với các tu sĩ nam nữ, hoặc các em từng nội trú trong các nhà dòng, thường được chứng kiến những nết xấu của những người đi tu, nên mất lòng kính trọng và không muốn cất bước đi tu nữa. Thực ra, có thể nói rằng Giáo hội tuy là thánh thiện nhưng bao gồm những tội nhân yếu đuối, cần hưởng lòng thương xót Chúa và sự cảm thông của mọi người. Thiện và ác luôn giao tranh trong nội tâm từng người, kể cả những bậc tu hành. Đừng thất vọng về những tội lỗi của tha nhân và sự yếu hèn của bản thân mình, vì tất cả chúng ta đều có khả năng tái tạo mỗi ngày: hôm nay tốt hơn hôm qua và kém ngày mai. Trong ơn Thánh Chúa, tôi quyết vươn lên mỗi ngày và giúp người anh em quanh tôi cũng được tái tạo – vượt qua những lỗi lầm của chính họ.

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2015

SỰ KHÔN KHÉO SỬ DỤNG TIỀN CUẢ



Tin Mừng  tuần XXV TN C (Lc 16,1-13)

Chúa Giêsu không khen sự bất lương, gian lận tài sản của người quản gia, nhưng là khen sự khéo léo của anh ta về cách xử sự về tiền bạc: biết dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu.

Ở thời nào cũng thế, mãnh lực đồng tiền là khôn lường, có thể đổi trắng ra đen, có thể làm mưa làm gió trên chính trường quốc tế cũng như trong mỗi gia đình. Có đồng tiền, ta tự tin và được no ấm, còn kẻ không có tiền thì chịu cảnh bấp bênh của cuộc đời. Ở xã hội nào cũng có những hiện tượng rửa tiền, những hoạt động phi pháp liên quốc gia của những tay trùm ma túy và khủng bố mà chính cảnh sát Interpol cũng không kiểm soát hết được. Vào thập niên 80 của thế kỷ trước, chính ngân hàng của Giáo hội Công giáo cũng bị dính líu đến một vụ rửa tiền và suýt phá sản: ngân hàng đã đầu tư cho một số công ty dược phẩm có đạo để sản xuất thuốc, không ngờ các công ty nầy lại dùng tiền đó để sản xuất thuốc ngừa thai và phá thai… khi biết việc, nhiều cổ đông đã rút vốn đầu tư của họ ra khỏi ngân hàng, vì ngân hàng đã hoạt động sai mục đích.

Ai trong chúng ta cũng cật lực làm việc để kiếm tiền và chúng ta phải biết quý trọng đồng tiền, sử dụng đúng mục đích. Nhưng ngay giữa chúng ta vẫn có những người biết sử dụng đồng tiền cách khôn khéo. Họ chẳng thà mất tiền còn hơn mất tình nghĩa ruột thịt và bạn bè, họ chẳng thà mất việc và kiếm được ít tiền còn hơn mất đức tin. Đồng tiền chúng ta kiếm được có khi là lương thiện, có khi là do chênh lệch về tỷ giá hối đoái hay do đầu cơ tích trữ hàng hóa… nhưng nếu chúng ta biết dùng nó để san sẻ với người nghèo, để làm việc bác ái, để đóng góp xây dựng giáo xứ hay ủng hộ đồng bào bị thiên tai… thì đó là đã biết sử dụng khôn khéo rồi vậy.

Truyện cổ nhân kể lại rằng: Mạnh Thường Quân là vị tướng có đến 3000 gia nô, một hôm Phùng Hoa đến xin nương nhờ để kiếm miếng cơm manh áo. Tuy chẳng có tài cán gì, nhưng tướng mạo có vẻ thông minh, nên ông được Mạnh Thường Quân tin dùng. Một hôm ông được sai sang đất Tiết đòi nợ và được dặn là xem trong nhà còn thiếu thứ gì thì mua đem về. Phùng Hoa đến đất Tiết, chứng kiến cảnh khốn cùng của dân, ông truyền thu hồi các khế ước nợ và tuyên bố: Mạnh Thường Quân tha nợ cho các ông. Ông về nhà và trình lại với chủ: tôi nghĩ nhà mình chẳng thiếu thứ gì, thiết tưởng chỉ còn thiếu nhân nghĩa, nên tôi đã mua cho ông rồi đó. Chỉ ít lâu sau, Mạnh Thường Quân sa cơ lỡ bước, phải bỏ lại tài sản và gia nô để chạy sang đất Tiết lánh nạn, chỉ đem theo Phùng Hoa và một ít người thân cận. Dân chúng đất Tiết nồng nhiệt đón tiếp ông để trả ơn, lúc đó Mạnh Thường Quân mới bảo với Phùng Hoa: “bây giờ ta mới hiểu nhân nghĩa là gì rồi”.

Trong cảnh khốn cùng của bệnh tật, tai họa và bị phỉ báng bởi vợ và bạn bè, ông Gióp đã xác tín:“Thân trần truồng, tôi sinh ra từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Chúa đã ban cho, Chúa lại lấy đi. Người muốn sao, nên vậy, xin chúc tụng Danh Chúa. Mình biết đón nhận ơn lành từ tay Chúa, còn điều dữ lại không biết đón nhận sao?”. Thân phận mỏng manh của kiếp người là thế đó, của cải phù du là thế đó… người khôn ngoan biết dùng của cải để sắm sẵn cho mình kho tàng nước trời và không để của cải thống trị đời mình.

SỨ ĐIỆP KITÔ GIÁO



Tin Mừng Chúa nhật 22TN A (Mt 16,21-27)
Bài Tin Mừng hôm nay chứa đựng một nội dung quan trọng, có thể coi là sứ điệp của Kitô giáo: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, sẽ bị giết và sẽ sống lại. Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. Lần đầu tiên nghe sứ điệp nầy, các môn đệ và đặc biệt là ông Phêrô đã bị sốc: “Xin Chúa thương đừng để Thầy phải chịu chuyện ấy”. Những lần về sau, các ông dường như không muốn hiểu Thầy mình đang nói về chuyện gì đó khó hiểu và xa vời thực tế.

Quả thực, trong 3 năm giảng đạo, có lúc Chúa cũng bị từ chối, nhưng hầu như ánh hào quang luôn bào trùm Chúa và các môn đệ: đám đông từ khắp nơi tìm đến để nghe lời Chúa giảng, bao nhiêu phép lạ cả thể đã xảy ra một cách nhãn tiền, đã có những âm mưu tôn Ngài lên làm vua, và các ông mải dệt mộng đời mình cho một tương lai sán lạn… Đúng là họ gặp may khi đi theo Thầy Giêsu. Vào thời ấy, thập giá là một nỗi ô nhục đối với người Do Thái. Hãy thử nghĩ mà xem: nếu chết bệnh hay tai nạn còn đỡ đau thương và nhục nhã hơn là chịu đau khổ và hành hạ, bị bêu nhục, bị phơi thây trần trụi như Thầy đã nói. Thánh Phaolô đã diễn tả: “Đức Kitô, tuy là phận Thiên Chúa, đã mặc lốt phàm nhân, còn hạ mình hơn nữa mà vâng phục đến chết, và là cái chết của thập giá” (Philip 2,8).

Thập giá đời ta là kiếp nhân sinh mà ta đang trải qua với sinh, lão, bệnh, tử và cũng là những thứ Chúa cho phép xảy đến với ta: những hiểu lầm đố kỵ do người khác gây ra và những thử thách ta gặp trên đời. Có một thực tế là đôi khi ta không muốn vác thập giá của chính mình và đổ cho người khác vác! Đó là khi ta cứ chọn việc nhẹ nhàng cho mình, muốn dành phần thắng trong cuộc đôi co với người hàng xóm, vứt xác súc vật sang thổ cư người khác hoặc đạp những bao rác nhà mình xuống bên vệ đường, vợ chồng đùn đẩy việc nặng nhọc cho nhau.

Như Moisen đã treo con rắn đồng  nơi hoang địa để chữa lành những ai nhìn lên nó, Con Người sẽ bị treo lên như vậy: đó dường như là một sự thật tất yếu của kế hoạch cứu độ. Đối với Chúa Kitô và với Kitô giáo,THẬP GIÁ LÀ QUYỀN NĂNG CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA. Điều nầy được chính lịch sử chứng minh: những lúc Giáo hội trải qua những bắt bớ và khổ nạn chính là những lúc Giáo hội trở nên vững mạnh trong đức tin và có đông người gia nhập đạo; những nơi và những lúc được hưởng sự dễ dãi thì dường như Giáo hội có nguy cơ tàn lụi hơn bao giờ hết. Đúng là sử gia Tertulianô nói một câu bất hủ: “Máu của các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh người Kitô hữu”. Sứ điệp Kitô giáo còn được chứng minh qua cuộc sống của mỗi người: chính lúc biết chấp nhận chết đi cho những đam mê trần tục thì linh hồn ta mới được siêu thoát; còn ngược lại nếu ta vùi đắm đời mình trong lạc thú và lạm dụng tự do quá trớn thì tâm hồn ta trở nên nặng nề - xa cách Chúa ngàn trùng, và như Lời Chúa nói: “Ai mất mạng sống mình vì Thầy ở đời nầy thì sẽ tìm được mạng sống ấy cho cuộc sống vĩnh cửu”.

Lạy Chúa, ngày xưa cũng như hôm nay, không ai muốn chọn cho mình một thập giá nặng cả; vì dầu sao một cuộc đời được danh giá, thành đạt, bình an và khỏe mạnh… vẫn là dấu hiệu được Chúa thương, vì Chúa luôn là người Cha từ ái – không vui gì khi thấy con cái mình chịu đau đớn.

Thế nhưng, Con Một Chúa đã trải qua thập giá và đã trở nên căn nguyên ơn cứu rỗi cho muôn người. Và thập giá không miễn trừ cho một ai, nếu muốn làm môn đệ Chúa. Xin cho chúng con vui lòng vác thập giá đời mình, vì như thế thì thập giá sẽ nhẹ nhàng hơn là kéo lê và vì biết rằng Chúa cùng vác với con, nên con không xiêu té và vấp ngã.



RA RIÊNG CHO CON


Lễ Thăng Thiên


Trong các gia đình Á Đông, khi con cái lập gia đình, thường chung sống một thời gian ngắn với cha mẹ để có một sự hòa nhập với đại gia đình, nhưng họ phải được ‘ra riêng’ để trưởng thành hơn. Đây là một điều cần thiết để họ trưởng thành, vì họ phải tự quyết định và lo liệu mọi chuyện liên quan đến gia đình mình, nào là chuyện cơm áo gạo tiền – đối nội đối ngoại – cả tâm linh cũng như vật chất.

Chúa Giêsu về trời được xem như là biến cố ‘ra riêng’ cho Giáo hội, từ nay họ phải tự quyết mọi vấn đề: nên làm gì và không nên làm gì, đối xử với nhau và với các tôn giáo bạn như thế nào. Mừng lễ Chúa về trời, chúng ta sống lại những tâm tình mà Giáo hội sơ khai đã trải qua. Vào một ngày được ấn định, toàn thể giáo hội sơ khai ngày ấy – gồm các môn đệ - có cả Mẹ Maria và các phụ nữ nữa,  tập trung lên một ngọn núi, và có lẽ Chúa cùng đồng hành với họ quãng đường khoảng 800m đó. Đến một thời khắc quyết định, Chúa từ từ được nhấc lên và khuất dạng nơi chân trời.

Với khái niệm hạn hữu của trí óc con người và với ngôn ngữ loài người, kinh Tin kính từ thời các Tông Đồ đã diễn tả “Người lên trời, ngự bên hữu Đức Chúa Cha”, là muốn nói rằng: Chúa chuyển sang một trạng thái hiện diện khác, Chúa trở về với trạng thái hiện hữu trước khi nhập thể cứu đời, Chúa trở về trong tư cách kẻ chiến thắng vì đã hoàn thành ý định cứu chuộc ngàn đời và là Con yêu dấu của Cha. Cuộc trở về lại trong trạng thái vinh quang của Thiên Chúa có một điều mới lạ là Đức Giêsu mang theo cả nhân tính nữa, bởi đó Ngài vẫn còn cảm thông mãi với bản tính yếu hèn của con người và mãi gần gũi với phận người.

Chúa ra đi là để dọn chỗ cho chúng ta, và rồi Chúa sẽ trở lại để đem ta về chung sống với Ngài. Ngày chúa về trời hôm ấy, các môn để rất bàng hoàng vì bơ vơ lạc lõng, và chắc hẳn cũng có những giọt nước mắt nhỏ ra vì ly biệt… dù Chúa đã nói trước là sẽ sai Chúa Thánh Thần đến, điều đó có lợi hơn cho các ông, Thần Chân Lý sẽ nhắc nhở các ông nhớ và hiểu những lời Chúa Giêsu đã giảng dạy, Đấng An Ủi sẽ vỗ về những kẻ tin vào Đức Kitô đang trải qua những cơn thử thách.


Chúa về trời là tiến đến một trạng thái hiện hữu khác, khuất khỏi tầm mắt con người và không còn lệ thuộc vào thời gian cũng như không gian. Bởi thế, Ngài lại có điều kiện hiện diện gần chúng ta hơn: Ngài ngự trong cõi lòng ta khi ta rước Thánh Thể, Ngài hiện diện trong Kinh Thánh như là Lời được trực tiếp nói với ta, Ngài hiện diện trong từng khuôn mặt tha nhân quanh ta, Ngài hiện diện khi 2 – 3 người hiệp nhất với nhau, cùng làm việc vì Danh Chúa cả sáng . Ngày xưa, thân xác Phục sinh đó đã xuất hiện tỏ tường với các tông đồ khi họ rủ nhau đi đánh cá, Ngài trao đổi chuyện trò với họ, nhưng nào họ có nhận ra Ngài! Chỉ đến khi thấy mẻ cá lạ bắt được theo lời đề nghị của người lạ, Thánh Gioan mới nhạy bén nhận ra Chúa và nói với Thánh Phêrô: “Chính Chúa đó!”(Ga 21,1-14).

Mẻ cá lạ 153 con ngày hôm ấy ám chỉ hết mọi dân tộc trên địa cầu nầy (sách cổ động vật học Hy Lạp liệt kê 153 loài cá). Chúa thổi nhiệt tình và hướng dẫn các ông chỗ thả lưới, các ông vâng theo dù cả đêm đã thức trắng mà chẳng bắt được gì. Chúa vẫn hiện diện bên cạnh Giáo hội là hiền thê của mình suốt 2000 năm qua, dù trải qua những thăng trầm sóng gió thì Chúa luôn đồng hành cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Đọc tiểu sử các vị Thánh trong Giáo hội và tìm hiểu luật lệ các tu hội, ta thấy việc kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể luôn được đề cao và thực hành kiên trì hằng ngày, nhiều giờ… dù công việc mục vụ có vất vả bao nhiêu chăng nữa. Đan cử hạnh Thánh Phanxicô Xaviê: ban ngày dù bận rộn với việc dạy giáo lý và thăm mục vụ, thì đêm đến cầu nguyện lâu giờ trước Thánh Thể - có khi ngủ quên ngay trước nhan Chúa. Chân Phước Gioan Phaolô II thường cầu nguyện lâu giờ cho những nhu cầu Giáo hội, dù việc mục vụ dày đặc thì Ngài cũng thức dậy rất sớm để bước vào nhà nguyện. Trong bài giảng lễ phong Chân phước cho Ngài, Đức Benêdictô XVI đã nói: “Tấm gương cầu nguyện của ngài không ngừng gây cảm kích và soi sáng cho tôi: ngài không ngừng kết hiệp thâm sâu với Thiên Chúa ngay cả khi lọt thỏm giữa bao yêu cầu của sứ vụ”.

Chúa về trời ngự bên hữu Chúa Cha, nhưng Người cũng vẫn ở lại với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế. Chúa rời xa ta là để hoạt động của Chúa Thánh Thần sinh ơn ích hơn cho Giáo Hội. Chúa khuất tầm nhìn của ta là để Giáo hội có cơ hội trưởng thành khi phát huy sự tự do và tự quyết của mình. Thế nhưng, Chúa vẫn chờ đợi ta đến tham khảo ý kiến và xin ơn trợ lực nơi Thánh Kinh và các Bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và Sám hối. Vâng lệnh Chúa, hãy ra khơi thả lưới dù cho mệt nhọc vì đêm trường uổng công. Điều quan trọng duy nhất để bắt được mẻ cá lạ là biết cậy dựa vào Chúa và vâng nghe lời Ngài.

Thứ Tư, 7 tháng 10, 2015

Phục hồi niềm tin



Tin Mừng chúa nhật 27 TN C (Lc 17,5-10)

Bài Tin Mừng được chia thành 2 phần xem ra tách biệt nhau, nhưng thực sự lại có một sự liên hệ rất chặt chẽ với nhau: Các môn đệ xin Thầy thêm lòng tin cho và phần sau nói về việc phục vụ vô vị lợi.

“Lạy Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con” cũng là lời cầu xin của mọi tín hữu, kể cả linh mục và tu sỹ. Các môn đệ đã nhiều lần nghiệm ra mình thiếu lòng tin qua những lần thấy Chúa đi trên biển mà tưởng là ma, có lần các ông trừ quỷ mà không được - các ông hỏi lý do tại sao - và Chúa đã trả lời là vì các ông thiếu lòng tin. Nhất là trong những hoàn cảnh đau thương, khi gặp thất bại và thử thách, lòng tin vào Chúa của ta rất dễ lung lay. Có lời một bài hát: "Con tưởng rằng con vững tin, khi đời sống đầy những hoa hồng, khi cuộc sống nhẹ trôi êm đềm, khi đất trời ngập nắng bình yên. Nhưng khi đời gặp bao giông tố, khi trời vừa lập đông băng giá, con lo âu lạc bến xa bờ, con mới biết rằng con chưa vững tin”

Trong trại tập trung Austruitch, là nơi khoảng 4 triệu người Do Thái đã bị giết- trong đó có cha Maximilien Kolbê- là nơi niềm tin vào Thiên Chúa Giavê bị thử thách ghê gớm. Khi lực lượng đồng minh đến, các hồ sơ đang bị tiêu hủy, người ta giành lại được một số hồ sơ đã cháy dở, và có một bức thư ghi lại thử thách niềm tin của một tử tội: “Lạy Chúa, con tin là có Ngài,  nhưng con không thể hôn cái gậy của Ngài; con tin là Ngài hiện hữu, nhưng con không thể tin được là Ngài yêu thương con người, nhất là những người dân tộc Do Thái…”. Người ta cũng ghi nhận rằng trong số 6 triệu nạn nhân Do Thái, có những thầy dòng đã treo cổ tự tử trong nhà giam.  Dù họ là người được huấn luyện Thần học rất kỹ càng, nhưng khi chứng kiến cảnh hành hạ con người dành cho nhau, niềm tin họ đã trải qua cơn thử thách nặng nề…

Không ai trong chúng ta có thể nói rằng niềm tin của mình là kiên vững cả. Ngay các cha ông chúng ta, trong suốt 300 năm bắt đạo của Giáo hội Việt Nam, đã có nhiều người quá khiếp sợ cực hình mà chối Đạo, có vị sau đó ăn năn hối cải và xin nộp mình cho quan để chịu tử vì đạo. Chính Chúa Giêsu cũng dạy ta phải kiên trì cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ, vì tinh thần thì lanh lợi nhưng xác thịt lại yếu đuối. ..

Tuy vậy, cũng có cách để hồi phục niềm tin! Đó là bằng việc làm. Thánh Giacôbê nói: Đức tin không việc làm là đức tin chết. Anh hãy cho tôi thấy niềm tin không việc làm của anh, còn tôi –tôi sẽ dùng hành động mà chỉ cho anh biết niềm tin của tôi. Chuyện kể rằng có một người phụ nữ đang trong tình trạng thất vọng vì cuộc sống, không tin vào cuộc đời và chính mình nữa. Bà đến văn phòng tư vấn tâm lý và gặp vị giám đốc điều hành của công ty. Sau khi nghe chuyện đời bà, ông giám đốc đề nghị bà gặp cô thư ký trẻ của mình đang ngồi ở bàn làm việc. Cô này lễ phép thưa chuyện: “Thưa bà, con cũng đã trải qua những giây phút nặng nề của cuộc đời giống như bà bây giờ, lúc đó chồng con vừa mới mất vì bệnh và đứa con duy nhất của con lại bị tai nạn chết tại chỗ chỉ mấy ngày sau, con chán nản cực độ và muốn quyên sinh cho rảnh nợ đời. Thế nhưng, vào một đêm mưa gió, con đang ở nhà – tâm trạng buông xuôi, thì nghe tiếng cào nhẹ ở cửa – con nhìn ra và thấy một con mèo, nó bị ướt và cào cửa để xin vào nhà tránh mưa gió lạnh. Con mở cửa đưa nó lại gần lò sưởi và lau khô cho nó, con cho nó ăn chút ít vì thấy nó có vẻ đói, và chỉ một lúc sau nó cuộn tròn ngủ ngon lành trong vòng tay con. Con nghiệm ra rằng kể từ ngày tai ương xảy đến, đây là những giây phút con cảm nếm được niềm an bình hạnh phúc, con nghĩ chỉ một việc chăm sóc một sinh vật nhỏ bé đáng thương đã làm cho lòng mình ấm lên, thì tại sao ta không chăm sóc những người bất hạnh ngay trong xóm của mình xem sao. Và thật lạ lùng, khi con dấn thân giúp đỡ những người đáng thương đang sống quanh con thì con tìm lại được ý nghĩa cho đời mình, con được an bình – vui sống và hạnh phúc. Con trao cho họ thời giờ và sức lực của mình, nhưng con lại nhận được nhiều hơn về hạnh phúc và bình an tâm hồn

Vây đó, khi ta dấn thân cho những công việc phục vụ cộng đoàn, giúp cho người khác thăng tiến tinh thần, chia vui sẻ buồn, quan tâm đến những người bất hạnh hơn mình…một cách vô vị lợi, thì bình an của Chúa sẽ xuống trên ta, và đó là cách phục hồi niềm tin yếu kém của ta.

NHỮNG TÁ ĐIỀN LÀM VƯỜN NHO



Tin Mừng Chúa Nhật XXVII TN A (Mt 21,33-43)

 Xin được mở đầu bài chia sẻ với một câu chuyện đã xảy ra ở một giáo xứ vùng Bảo Lộc: Có một linh mục A có kế hoạch xây dựng ngôi Thánh Đường cho giáo xứ, vì số kinh phí quá lớn nên Ngài đi ngoại quốc để quyên góp và đã quyên góp được một số tiền rất lớn. Vì ngại một số bất tiện, nên Ngài đã gửi số vốn cho một người cháu gọi Ngài bằng cậu, để cháu gửi về sau. Lúc đã về Việt Nam, đợi mãi mà chẳng thấy tiền đâu, gọi sang Mỹ thì người cháu đã biến mất cùng với số tiền! Vị linh mục buồn sầu quá đỗi đến nỗi lâm bệnh và chết.

 Hành động xấu của người cháu được gọi là chiếm dụng bất công những thứ không phải là của mình và hành động bất lương như thế sẽ bị “ác giả ác báo!”. Những tá điền vườn nho cũng có một tội danh tương tự khi họ muốn nuốt trôi phần hoa lợi của chủ và tệ hại hơn nữa là họ còn muốn chiếm luôn vườn nho. Người Do Thái được gọi là dân riêng của Chúa, được Chúa bao bọc chở che, được các tiên tri dạy dỗ lề luật Chúa và được nghe  thấy những điều kỳ diệu của Chúa Giêsu … Ấy thế mà họ không biết làm lợi từ những ân lộc Chúa ban và kết quả là “Nước Thiên Chúa sẽ được cất khỏi các ngươi và ban cho một dân tộc khác biết làm Nước ấy sinh hoa lợi.”


 Bài Tin Mừng hôm nay không phải là chuyện cổ tích, nhưng nằm trong loạt những dụ ngôn về Nước Trời, một sự thật luôn hiện hữu giữa chúng ta, nghĩa là Chúa cũng muốn nói với cả chúng ta hôm nay nữa: ta phải biết làm sinh lợi từ những điều chúng ta đang được hưởng, như được sinh ra trên cõi đời, được biết Chúa, được hưởng muôn ơn Chúa, được sở hữu những tài năng mà người khác không có… Có một thực tế thường thấy, là nhiều người thường chiếm dụng bất công những tài năng Chúa ban làm của riêng mình thay vì biết đem chia sẻ cho người khác, biết phục vụ anh em. Nhiều người bỏ ra những số tiền kếch xù để thỏa mãn nhu cầu xa hoa hay để phục vụ cho những đam mê bất chính, để thu vén cho hạnh phúc cá nhân và gia đình thay vì dùng những ân lộc Chúa ban để trợ giúp những người kém may mắn hơn mình. Cả họ nữa, hãy coi chừng! vì “Nước Thiên Chúa sẽ bị cất khỏi họ để ban cho dân tộc khác biết làm sinh lợi hơn”.

 Lạy Chúa, chúng con đang khởi đầu tuần lễ mới với niềm hăng say. Chúa lại ban cho chúng con một sức sống mới từ Lời Chúa: Hãy biết làm lợi những tài năng Chúa ban. Vâng, lạy Chúa, con vẫn ý thức được rằng ơn riêng Chúa ban cho con là để con phục vụ cộng đoàn, nhưng nếu con không làm ích cho ai, mà chỉ bo bo giữ lấy để vuốt ve và tự đắc… thì chắc chắn Chúa sẽ lấy lại, vì con đã chiếm giữ bất công những thứ không phải của riêng con.

 Lạy Mẹ Mân Côi, Mẹ đã tự xưng mình là “nữ tỳ” của Chúa và sẵn sàng vâng theo ý Chúa, xin cho con cũng biết tự nhận mình là “đầy tớ” của Chúa để con sẵn sàng thưa “xin vâng” trong suốt đời con. Amen.

Thứ Ba, 6 tháng 10, 2015

Một trăm sáu mươi ngàn năm so với 3 tháng



Tin Mừng Chúa nhật 24 TN A (Mt 18,21-35)

Đây (160.000 năm // 3 tháng) là con số quy đổi của 10.000 nén vàng so với một trăm quan tiền mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay, vì giá của một ngày công thuở ấy là một đồng. Một sự chênh lệch quá lớn: Thiên Chúa tha thứ cho ta thật nhiều, và ta thường khắc nghiệt với anh em!

Sự tha thứ là điều phù hợp với lý trí bình thường của con người. Ông Dale Carnegie có kể một câu chuyện: Một ông chủ bực tức vì một nhân viên của mình phạm lỗi, ông ta liền rượt đuổi hòng tóm lấy hắn, hai người rượt đuổi quanh một chiếc bàn rộng và đến vòng thứ 3 thì người chủ ngã xoài - trợn mắt vì đột quỵ. Thật đáng thương cho ông chủ, vì ông nghĩ rằng lỗi người kia xúc phạm đến mình là quá lớn! Những bài viết về ‘Nghệ thuật sống’ luôn chỉ vẽ cho ta biết có tha thứ thì tâm hồn ta mới thanh thản và nhẹ nhõm, tránh được hao tổn khí lực vì ăn không ngon – ngủ không yên. Nhưng tha thứ là điều không dễ dàng gì, cần phải có sự dũng cảm và sự trợ lực của ơn Thánh. Khổng tử dạy rằng: “Nhân vô thập toàn”, bởi thế tha thứ cho nhau là điều hợp lý vì ta cũng sẽ được người khác thứ tha cho, và rằng: ‘Lấy oán trả oán thì oán càng chồng chất, lấy ơn trả oán thì oán bị tiễu trừ’.

Sự tha thứ là dấu chỉ của lòng biết ơn. Sinh ra trên cõi đời, chúng ta được hưởng công ơn dưỡng dục của cha mẹ, được hưởng thành quả của khoa học tiến bộ và biết bao tiện ích của xã hội, được hưởng gia sản Đức tin mà tiền nhân đã hy sinh đổ máu đào để minh chứng và lưu truyền, và nhất là mỗi ngày được hưởng muôn ân lộc Cha trên trời ban tặng – được Chúa tha thứ muôn muôn vàn lỗi lầm. Nhiều người trao ban cho ai đó một ân huệ và chỉ ước mong người đó thể hiện lòng xót thương cho ai đó, vì cả người cho và kẻ nhận sẽ cùng được giàu có. Kẻ được tha nhiều sẽ yêu nhiều và tình yêu đó được thể hiện bằng lòng thương xót – tiếp tục cho đi: thương những sinh linh bé nhỏ, thương những kẻ nghèo hèn và thương hết mọi người. Chuyện xảy ra trong Tin Mừng hôm nay đi ngược với quy luật trên, nên các bạn của người đầy tớ khắc nghiệt đã kể lại cho ông chủ và ông chủ đã ra một hình phạt nặng nề cho kẻ không biết thương xót người khác.

Tha thứ là bước đi trên con đường trọn lành. Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban cho ta Con Một, Đấng hiến thân mình trên thập giá, và Đấng ấy đã tha thứ cho nhân loại vì ‘họ lầm chẳng biết’. Chúa dạy: “Đừng xét đoán, và các ngươi sẽ không bị xét đoán. Đừng lên án, và các ngươi sẽ không bị lên án. Hãy tha thứ, và các ngươi sẽ được thứ tha. Hãy cho đi, và các ngươi sẽ được cho lại. Các ngươi đong bằng đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy. Người ta sẽ dùng đấu hảo hạng, đã dằn đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo các ngươi. Vì các ngươi đong bằng đấu nào thì sẽ được đong trả lại bằng đấu ấy” (Mc 6,37-38). Mỗi ngày ta được mời gọi nên hoàn hảo hơn. Sự trọn lành Kitô giáo tùy thuộc vào việc nên giống Chúa Kitô và biết xót thương tha nhân, vì Chúa Giêsu đang hiện diện trong họ.

Xin kể hai câu chuyện có liên quan đến việc xét đoán và tha thứ:
Câu chuyện thứ nhất: Có một người kia, suốt ngày cứ tìm cách bới móc tật xấu của người khác. Đêm về, nằm ngủ, anh mơ thấy mình bước đi cực nhọc với một gánh rất nặng trên lưng. Anh xin Chúa cất gánh nặng đó cho mình. Chúa bảo anh: gánh nặng đó là những lỗi lầm người khác mà con bới móc được và con tự chất lên lưng mình.

Câu chuyện thứ hai: Một người khác mất ăn mất ngủ vì nỗi uất hận bị vợ phản bội. Một lỗi lầm không thể tha thứ được!  Sau nhiều tháng trời bị dằn vặt bởi nỗi đau, quả tim anh ta dần khô héo, bèn tìm đến gặp vị ẩn sỹ. Vị ẩn sỹ cho anh một lời khuyên: muốn cho quả tim được nhẹ nhõm và thanh thản, không có cách nào khác là tha thứ; mỗi lần tha thứ là một viên sỏi nhỏ rớt ra khỏi lồng ngực và anh thấy dễ thở hơn. Anh trở về, mỗi ngày tập tha thứ cho vợ,  và như một quy luật tất yếu - người vợ cũng đáp trả sự tha thứ của anh bằng ân tình chan chứa.

Cuộc đời không thể không va chạm, cãi vã…nhưng hãy tha thứ, vì đó là Lời Chúa truyền dạy, là điều tốt cho tâm hồn và sức khỏe, là dấu chỉ của một người dũng cảm, là cách thế tuyệt vời để hóa giải thù oán. Hãy xác tín rằng Cha trên trời biết rõ mọi điều, và hãy luôn nguyện cầu ‘xin cho con biết chịu mọi sự sỉ nhục cách vui lòng’. Dù đã ra khỏi tù, nhưng nếu ta còn bực tức với những người cai tù, thì ta đang bị họ giam giữ rồi vậy.