Danh sách Blog của Tôi

Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2020

Thiên Chúa làm người

 



Khi suy niệm mầu nhiệm Giáng Sinh, ngày nay chúng ta dễ nhận ra sứ mạng của Chúa Giê su. Nhưng ngày xưa, khi Chúa Giê su xuất hiện, những người đương thời rất khó nhận ra được sứ mạng và căn tính của Ngài là gì: Ngài là ai, đến trần gian để làm gì?

Tên Giê su có nghĩa là Thiên Chúa cứu độ . Ngay sau khi ông bà nguyên tổ phạm tội, Thiên Chúa đã hứa ban Đấng Cứu Thế: “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và dòng dõi người nữ, một người con từ người nữ sinh ra sẽ đạp dập đầu mi”. Trong cuộc báo mộng cho Thánh Giuse: “Ông hãy đặt tên cho con trẻ là Giê su, vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội” (Lc 1,21). Qua hai câu Kinh Thánh trên, chúng ta nhận ra rằng căn tính của Chúa Giê su chính là ‘chiên Thiên Chúa đến gánh tội trần gian’, nhiệm vụ chính của Ngài là cứu nhân loại khỏi vòng tội lỗi.

Có thể nói trong suốt cuộc đời, Chúa Giê su luôn bị ma quỷ cám dỗ đi lệch hướng, chống lại chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã hoạch định. Tin Mừng chỉ ghi lại một cuộc cám dỗ trong sa mạc khi Chúa Giê su khởi đầu cuộc sống công khai, nhưng quả thực, ma quỷ luôn tìm mọi dịp để làm cho Chúa Giê su đi trệch đường: thay vì chọn ý Chúa Cha thì chọn của cải, được tôn trọng, nổi tiếng, lạc thú, không phải khổ nhục. Khi nhập thể làm người, Chúa Giê su trở nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi, nên Ngài cũng bị cám dỗ về những tham sân si và cũng phải trải qua những đau khổ để học cho biết vâng phục. Chỉ khác chúng ta là Ngài không bị quật ngã và đã không phạm tội.


Thời Chúa Giê su, dân Do Thái mong chờ Đấng cứu tinh mà tiên tri Isaia đã loan báo: Ngài đến chỉnh đốn mọi sự, giải thoát kẻ bị giam cầm, kẻ câm nói được, người què đi được, kẻ chết sống lại, người nghèo được nghe tin mừng; sói với chiên cùng ăn cỏ với nhau, trẻ thơ chơi đùa kề bên hang rắn lục; tiên tri cũng loan báo về người tôi tớ bị hành hạ nhục nhã để gánh lấy tội của dân. Thế nhưng, người Do Thái chỉ lưu tâm đến nhãn quan lợi lộc vật chất và chính trị  mà Đấng Thiên Sai mang lại như giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của đế quốc … và họ bị vấp ngã vì Chúa Giê su. Khi họ giết chết Ngài vì tội phạm thượng: một phàm nhân mà tha tội và tuyên bố mình là Con Thiên Chúa, thì Chúa đã xin Cha tha tội cho họ vì lầm chẳng biết.



Không dễ gì để nhận ra căn tính của Chúa Giê su và có thể nói không dễ gì để Ngài giữ vững căn tính cứu độ của mình. Ông Gio an sai các môn đệ đến với Chúa Giê su để hỏi: có phải Ngài là Đấng Ki tô hay chúng tôi còn phải đợi đấng khác? Chúa Giê su hỏi các môn đệ: người ta bảo Thầy là ai, anh em bảo thầy là ai? Trong cuộc thương khó ông Philatô hỏi Chúa Giê su: Ông là vua sao? Dưới chân thập giá, đám đông dân chúng và các vị lãnh đạo tôn giáo khiêu khích: nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin. Còn bạn và tôi, nhiều khi chúng ta cũng nghi ngờ về con người và vai trò của Chúa Giê su ngay trong những chọn lựa cuộc sống. Niềm tin vào Chúa Giêsu luôn trải qua những thách đố, Chúa luôn nhắc nhở con cái Ngài phải tỉnh thức và cầu nguyện, đừng mê ngủ trong vinh hoa cuộc đời, vì còn có đời sau!

Người Kitô hữu đừng để mình bị đánh mất căn tính của mình. Giá trị của tôi là con cái Chúa, Cứu Chúa của tôi là Chúa Ki tô. Mục đích cuộc đời tôi là chiến đấu với sự dữ để sống thân tình với Chúa Ki tô. Căn tính của một linh mục là cộng tác với Chúa Giê su để giải thoát con người khỏi tội lỗi, khỏi u mê lầm lạc. Căn tính của người sống đời hôn nhân là các thành viên trong gia đình giúp nhau nên thánh, cộng tác với các chủ chăn để làm các việc lành và trở nên muối men cho khối bột trần thế, loại trừ điều xấu và vun đắp điều tốt.

Có một linh mục nói với tôi: “Điều quan trọng nhất của một linh mục là làm cho giáo dân thường xuyên lãnh nhận bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Trên trần gian nầy không có gì quý trọng bằng Chúa Giê su Thánh Thể, còn bí tích Hòa Giải xóa bỏ tội lỗi để ta có thể đón nhận Chúa Giê su vào tâm hồn mình”. Ngài còn nói thêm: “ngày xưa các vị thừa sai dạy giáo lý cho anh em dân tộc thiểu số cũng nhấn mạnh đến hai bí tích này, người ta sẵn sàng đi cả ngày đàng để xưng tội, còn việc lãnh nhận Thánh Thể thì được các giáo phu trao ban trong các buổi cử hành phụng vụ Lời Chúa. Một người thường xuyên sống trong tình trạng sạch tội và siêng năng rước Thánh Thể như vậy thì dù họ chết mà không kịp lãnh bí tích xức dầu thì cũng không có gì đáng lo ngại”.



Điều quan trọng nhất đối với Chúa Giê su là giải thoát con người khỏi tội lỗi thì chắc chắn Chúa sẽ kíp ban Thánh Thần khi ta xin ơn phù trợ chống lại các cơn cám dỗ. Việc cần làm đối với ta là luôn cầu xin ơn trợ giúp và lòng thương xót Chúa: Lạy Chúa Trời, xin tới giúp con. Muôn lạy Chúa, xin mau phù trợ. Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con là kẻ có tội.

Thứ Năm, 24 tháng 12, 2020

Quà tặng

 



 

Có thể nói rằng những người bình dân dường như rất xa lạ với hai chữ quà tặng. Người có văn hóa và ở thành thị thường tặng quà khi yêu thương ai đó, khi đi xa về, khi kỷ niệm sinh nhật hay ngày cưới, vào các dịp lễ đạo đời. Quà tặng có thể là một cánh thiệp, một bó hoa, một vật dụng đơn giản, một đặc sản, một sản phẩm công nghệ mới hoặc một số tiền.

 

Từ thói quen ít tặng quà và ít nhận quà, có thể tâm hồn ta sẽ khép dần lại để chỉ biết vun vén cho gia đình, và cách nào đó ít nghĩ đến người khác (mackeno). Đành rằng sự lo lắng cho gia đình mình là bổn phận hàng đầu trên con đường nên thánh, nhưng điều cần nói ở đây là mỗi người phải nỗ lực đừng để cho tâm hồn mình chai cứng, mà phải tập sống khoan dung và rộng lượng với người khác. Tôi không nói rằng người thành phố sống quảng đại hơn người nhà quê, vì dù ở đâu và làm nghề gì, mỗi ngày và mỗi người đều phải chiến đấu với tính ích kỷ, tính kiêu ngạo, tính ghen tị để sống quên mình và biết nghĩ đến tha nhân quanh mình.

 

Tại nghĩa trang giáo xứ Thổ Hoàng có một câu nhắc nhở rất hay:

“Lấn thêm chút đất mà chi. Rồi ra cũng một chu vi đồng đều” (ghi theo trí nhớ). Người thu nhập về đất thì lấn thêm chút đất, người thu nhập bằng tiền thì kiếm thêm ít tiền và ít lợi thế nào đó cách bất chính, gạt anh em ra ngoài lề. Hậu quả đầu tiên là tạo nên sự hôi thối trong cuộc sống, vì nặc mùi diêm sinh; hậu quả tiếp theo là kiện cáo, làm trò cười cho những người ngoại đạo, khi hai người có đạo kiện cáo nhau là lên án chính giáo lý ‘yêu thương’ mà Đức Ki tô đã dạy: giới răn yêu thương chỉ có nơi môi miệng và nơi tòa giảng, không đủ sức giải quyết những tham sân si của lòng người.

 

Khi có tranh chấp bất hòa xảy ra trong cuộc sống, người có đạo phải dùng đến đạo trước khi đến tòa đời. Khi xảy ra bất hòa, hãy cố gắng hòa giải và tập trung cầu nguyện. Nhiều khi ta không cầu nguyện vì không tin rằng Chúa có thể hoán cải lòng người, đây là thái độ vô thần thực hành. Hãy chạy đến với Chúa, kiên nhẫn cầu nguyện cho cả hai bên, hãy cho Chúa thời gian và cách hành động, rồi bạn sẽ thấy hiệu quả của ơn thánh. Chính Chúa hứa: ‘Hãy xin thì sẽ được. Cha trên trời sẽ kíp ban Thánh Thần cho kẻ kêu xin Người’. Chúng ta cầu nguyện để đừng sa chước cám dỗ và luôn biết cư xử với nhau bằng tình thương.

 



Đừng nghĩ rằng chỉ có người có thu nhập cao và giàu có mới biết tặng quà. Mỗi ngày sống ai trong chúng ta cũng phải học cách cho và nhận: cho nhau một nụ cười, một lời an ủi, một sự quan tâm, một ít tiền. Chỉ có người nhận ra mình đã đón nhận quá nhiều từ cuộc đời, từ tha nhân và đã đón nhận mọi sự từ Chúa, mới biết rộng lòng với anh em. Hãy nuôi dưỡng trong tâm hồn mình lòng cao thượng, sự nhẫn nhịn và lòng bao dung, đó là những món quà vô giá mà ta có thể trao tặng cho anh em. Món quà tâm hồn này sẽ trổ sinh hoa trái ngay trên đời này và cuộc sống mai sau, vì Chúa không bao giờ chịu thua lòng quảng đại của chúng ta đâu.

 

Thiên Chúa đã trao tặng nhân loại Người Con Một của mình để giải thoát nhân loại khỏi ách tội lỗi. Thiên Chúa không mỏi mệt trước tội lỗi loài người và Ngài mời gọi ta đừng đánh mất tình yêu thuở ban đầu, một tình yêu trẻ thơ đơn sơ và một tình yêu rộn rã của kẻ đang yêu. Mỗi người hãy giữ tâm hồn mình được nồng nhiệt biết trao tặng tha nhân những quả ngọt và biết tận hiến cho Chúa qua từng ngày sống.  

 

 

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2020

Con Thiên Chúa làm người

 



Ai trong loài người cũng có những cảm xúc đặc biệt khi đến viếng hang đá trong mùa Giáng Sinh. Kẻ không tin thì cười nhạo vì cho rằng đây là biểu hiện của sự mê tín dị đoan, là sản phẩm của một thời quá khứ. Còn kẻ có niềm tin thì cung kính bái lạy một mầu nhiệm vĩ đại mà con người chỉ hiểu được một phần nào đó.

 

Mỗi mùa Giáng Sinh về, trong ta trổi lên một niềm cảm xúc nào đó tùy theo sự soi sáng của ơn Thánh, tùy sự chuẩn bị tâm hồn, và sẻ chia cho nhau như một quà tặng. Riêng tôi, năm 2020, một cụm từ đã soi động tâm hồn: Con Thiên Chúa đã thể hiện sự trút bỏ, còn gọi là mầu nhiệm tự hủy.

 



Đức Ki tô là một quà tặng vĩ đại của Thiên Chúa dành cho loài người. Ngài đã trút bỏ vinh quang Thiên Chúa để mặc lấy thân phận con người là loài thụ tạo. Ngài lại còn chọn sinh ra trong cảnh thiếu thốn vật chất, với thân phận một bé thơ yếu đuối, bị xua đuổi khỏi xã hội đạo đời và đã hạ sinh trong hang bò lừa ngoài đồng vắng. Đến khi Ngài chết thì lại chọn kiểu chết nhục nhã, bị lột trần cho xấu hổ, bị chê là người dại và đến phút cuối đời còn bị khích bác về tư cách Con Thiên Chúa. Mọi sự đó đều là do Chúa Giê su đã chọn, không phải là xui xẻo, để dạy ta bài học từ bỏ những cái phù du để chọn Chúa là gia nghiệp: từ bỏ của cải, từ bỏ cái tôi, từ bỏ danh lợi thú là những cái mà đời này coi trọng, vì còn có Chúa và còn có đời sau.

 

Các nhà tu đức đã nhận ra rằng trong 8 mối phúc thì mối phúc đầu tiên là quan trọng nhất và đã gồm tóm các mối phúc khác: người nghèo khó là người ý thức thân phận mỏng dòn của mình để biết cậy dựa vào Thiên Chúa trong mọi sự, người đó biết tìm ý Chúa trong mọi lúc mọi hoàn cảnh thì sẽ sống hiền lành – thương xót – trong sạch, tác tạo hòa bình và sẵn sàng chịu bách hại, vì Chúa.

 

Bàn tay của Hài nhi Giê su trong các hang đá luôn được trình bày trong hai tư thế, một là mở rộng như chúc bình an và hai là chắp tay như đón nhận ý Cha, miệng Ngài nở nụ cười hiền lành. Điều này rất khác bàn tay của bất kỳ một đứa trẻ nào khi được sinh ra là hai bàn tay luôn nắm chặt, miệng thì khóc chóe như đòi được quan tâm. Đứa trẻ ‘chúng ta’ lớn lên cũng tiếp tục tích góp cho mình về của cải – cái tôi – danh lợi thú, mãi cho đến ngày lìa thế thì hai bàn tay mới chịu buông bỏ những gì mình đã tích lũy suốt cả đời.

 

Có câu chuyện kể rằng: một người kia, trong một giấc mơ, thấy mình được cùng Chúa đứng chung trên một tấm thảm, cùng bay lên không trung trong một cuộc dạo chơi đầy thú vị. Thế nhưng, Chúa cứ rút dần từng sợi cói trong tấm thảm, tấm thảm đó thưa dần và xuất hiện nhiều khoảng trống – vậy mà Chúa cứ tiếp tục rút, và đến một lúc tấm thảm đã rơi xuống nên người đó vội ôm chầm lấy Chúa.

 

Quả vậy, cuộc sống trần gian là nơi ta hành đạo, là nơi ta học bài học trút bỏ như Đức Ki tô đã dạy, có những bài tập ta chủ động nhưng cũng có những bài học thụ động. Tập bỏ dần tính ích kỷ để yêu thương nhiều hơn. Tập bỏ tính kiêu ngạo để cậy dựa vào Chúa nhiều hơn, cầu nguyện tha thiết hơn. Tập tinh thần nghèo khó để biết vui lòng đón nhận cuộc sống, vui lòng chịu thiếu thốn  và thích sống đơn giản. Nếu bàn tay ta biết buông bỏ như vậy thì tâm hồn sẽ tràn ngập hạnh phúc và miệng ta sẽ nở nụ cười tươi. Chúc mọi người một mùa Giáng Sinh dồi dào ơn thánh. Amen.

 

Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2020

VƯƠNG QUỐC GIÊ SU

 



Các bài đọc trong Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ nói với chúng ta rằng: có ngày tận thế, có sự xét xử và có sự tách biệt giữa kẻ lành người dữ - dựa trên đức yêu thương khi đang sống trên trần gian. Tuy vậy, luôn luôn tồn tại hai loại người: có kẻ tin rằng có Thiên Chúa và kẻ khác lại cho rằng không có Thiên Chúa, không có linh hồn, không có đời sau, không có thưởng phạt…

Thật là phù hợp để đọc lại luận lý của Blaise Pascal, nhà toán học và triết học (trích từ Điều Vĩ Đại Của Kito Giáo):

“Pascal lý luận rằng cuộc đời chúng ta là một canh bạc. Giả sử bạn được đề nghị một công việc mới mà vì đó sẽ giúp bạn thăng tiến sự nghiệp. Nó rất hứa hẹn, nhưng dĩ nhiên cũng có những rủi ro. Không có cách chi biết trước là sự việc sẽ ra sao. Bạn phải quyết định có nên nhận hay không. Hoặc bạn đang yêu một người nào đó. Bạn đã hẹn hò trong một thời gian, nhưng bạn không thể biết chắc là hôn nhân với người ấy có kéo dài vài chục năm hay không. Bạn hành động dựa trên căn bản những gì đã biết, nhưng điều đã biết, theo bản chất tự nhiên của vấn đề, thì chưa đủ. Tuy nhiên, bạn phải quyết định. Bạn không thể tiếp tục nói rằng, "Tôi vẫn là một người theo chủ thuyết bất khả tri cho đến khi tôi biết chắc." Nếu bạn chờ đợi quá lâu, người yêu bạn sẽ kết hôn với ai đó, hoặc cả hai sẽ chết.

Tương tự như vậy, Pascal lý luận rằng khi quyết định về Thiên Chúa, chúng ta không bao giờ biết trước được mọi sự. Biết bao nhiêu cuộc điều tra cũng không thể đưa đến một câu trả lời chắc chắn, cũng như điều gì xảy ra sau khi chết thì vẫn là điều bí ẩn. Bởi đó chúng ta phải nghiên cứu những lựa chọn và phải đánh cuộc. Nhưng những lựa chọn khác là gì, và làm thế nào để chúng ta cân nhắc hơn thiệt? Pascal lý luận rằng chúng ta có hai sự lựa chọn căn bản, và dù lựa chọn nào đi nữa, chúng ta phải nghĩ đến nguy cơ khi chọn sai.

Nếu chúng ta tin vào Thiên Chúa và hóa ra Thiên Chúa không có thật, chúng ta đối diện với nguy cơ thiệt thòi: sự sai lầm siêu hình. Nhưng nếu khi còn sống, chúng ta từ chối Thiên Chúa, và hóa ra là Thiên Chúa có thật, sự nguy cơ còn lớn lao hơn nữa: sự tách biệt đời đời với Thiên Chúa. Dựa trên hai kết quả khả dĩ này, Pascal tuyên bố rằng có đức tin nơi Thiên Chúa thì ít thiệt thòi hơn. Khi đối diện với một kết quả không biết rõ, người có lý trí thì sẵn sàng từ bỏ những gì là hữu hạn để đổi lấy phần thưởng vô hạn mà họ có thể giành được. Pascal viết, "Chúng ta hãy cân nhắc sự thiệt thòi và lợi lộc khi đánh cá về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Nếu bạn thắng, bạn thắng mọi sự. Nếu bạn thua, bạn chẳng mất gì cả. Vậy đừng do dự: hãy đánh cá là Thiên Chúa hiện hữu."



Điều thứ hai tôi muốn nói đến là : chúng ta không thể vào thiên đàng nếu không làm các việc lành, nhất là thực hành đức công bình, bác ái. Câu chuyện khá dài trong Mt 25 đã nói rõ việc Chúa xét xử và tách biệt người lành kẻ dữ dựa trên đức yêu thương, dường như Chúa đã để lộ đề thi rồi, nhưng đề thi này là đề thi mở và là đề thi thực hành, nên dù biết trước đề thì chúng ta cũng không thể học tủ và Thiên Chúa vẫn dễ dàng chấm điểm mà không phải nhức đầu. Có thể nói cuộc sống trên dương gian là một cuộc hành trình mà đích đến là cái chết, bao lâu còn sống trên trần thì chúng ta còn phải chiến đấu với bản thân để vượt qua tính ích kỷ mà lưu tâm đến tha nhân. Một quốc gia đáng sống là một nơi mà luật pháp đảm bảo sự bình đẳng, công bằng và hạnh phúc cho mọi người, là nơi mà con người biết cư xử với nhau bằng luật tình thương và sự rộng lượng. Có câu danh ngôn rất đúng: kết quả cao nhất của giáo dục là con người biết nghĩ đến người khác. Đời sống đạo Kito rất nhấn mạnh đến khía cạnh ăn năn hối cải, đến việc tuân giữ lề luật, nhưng nếu chỉ dừng lại ở việc tránh tội mà mà thôi thì chưa đủ, vì Thiên Đàng chỉ dành cho người biết làm các việc lành – biết khuyến khích nhau làm điều lành.

Điều thứ ba tôi muốn nói đến là Chúa Giê su hiện diện nơi tha nhân. Xin nói đến chuyện của thánh Phanxico Assisi. Thánh Phanxico là con một nhà buôn giàu có, được Chúa kêu gọi từ bỏ của cải, danh vọng và lối sống trần tục để sống theo con đường Chúa muốn. Việc từ bỏ nầy không dễ dàng gì và Chúa đã nói rõ từng yêu cầu để tiến lên từng bước một, có hôm Chúa buộc Phanxico phải ôm hôn người phong cùi… và đêm về Chúa đã hiện ra với thánh nhân dưới dạng người phong cùi đó. Và có một vị thánh nào đó, ban ngày vị này gặp một người ăn xin rách rưới nên đã xẻ đôi chiếc áo khoác của mình để khoác cho người anh em, đêm đó Chúa Giê su đã hiện ra với nửa chiếc áo khoác. Hai câu chuyện trên chỉ minh họa thêm cho những lời dạy của Chúa về ngày phán xét vũ trụ. Tha nhân quanh ta là những người thân trong gia đình và trong lối xóm, người đồng hương và cả cộng đồng nhân loại, không phân biệt màu da và tôn giáo. Chúa Giê su hiện diện trong mỗi người tha nhân và dùng bàn tay của họ để gõ cửa tâm hồn ta. Nhiều người tự hào về việc ‘lạy Chúa, lạy Mẹ’ nhiều lần mà quên lòng xót thương, quên bổn phận công bình và bác ái… Chúa nói với họ: Ta không biết các ngươi, hãy đi cho khuất mắt Ta.

Thiên Chúa dựng nên con người có lý trí và tự do, họ phải dùng lý trí để hiểu những điều kỳ diệu Chúa làm cho mình và vũ trụ, hiểu những phẩm tính của Chúa để càng hiểu thì càng yêu Ngài hơn; Thiên Chúa tôn trong tự do của con người nên Ngài không ép buộc ai phải yêu Ngài, nên có kẻ chọn yêu mến Ngài là vua và là Chúa của mình hoặc từ khước Ngài cách tạm thời trong cuộc sống và một cách dứt khoát vĩnh viễn trong hỏa ngục. Hãy học ông Pascal để chọn lựa Giê su và sống theo luận lý của tình yêu, vì đó là một tính toán khôn ngoan và an toàn hơn cả.

Thứ Năm, 12 tháng 11, 2020

Sự chọn lựa


 


Trong  những tuần gần đây, cụ thể là từ đầu tháng 11 tới nay, cha xứ Phaolo Lưu Văn Phan cứ giảng về sự chọn lựa trong cuộc sống. Nghe cũng hơi nhàm chán, nhưng lần giở lại những bài Tin Mừng, tôi mới nhận ra rằng chủ đề chọn lựa luôn được nhắc tới dưới nhiều khía cạnh. Các nhà tu đức dạy:  chỉ có giây phút hiện tại là thuộc về chúng ta và chính những chọn lựa làm điều tốt hay xấu sẽ quyết định đến phần rỗi của mỗi người.

Sự chọn lựa của người con cái Chúa phải khác với sự chọn lựa của con cái thế gian. Thế gian thường chọn sự dễ dãi cho bản thân, còn người con Chúa phải chọn lựa điều phù hợp với lời dạy của Tin Mừng; thế gian chọn danh lợi thú – là con đường rộng rãi thênh thang – lối đi của số đông nhân loại, nhưng người con cái Chúa chọn con đường hẹp – ít người đi – là vác thập giá mình mà theo Chúa.

Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã có những chọn lựa thánh thiện trong cuộc sống, nên khi bị thế gian bách hại, các Ngài đã hiến dâng mạng sống để minh chứng niềm tin vào Chúa: Chúa hiện diện, Chúa quyền năng, Chúa yêu thương, Chúa trung tín. Các trinh nữ khôn ngoan đã chọn mang theo dầu, chọn một lối sống phù hợp với Tin Mừng, trong lúc các cô kia lại chọn một lối sống dễ dãi với bản thân.



Ai đó đã nói: thế gian không giết hại Chúa Kito được nữa thì họ quay ra bách hại Giáo hội là hiền thê của Ngài. Điều đó luôn luôn đúng, họ lấy đi mạng sống của một số ít người, nhưng họ thường thực hiện việc bách hại cách tinh vi và không mỏi mệt là bôi nhọ Giáo hội để làm lung lạc tinh thần các Kito hữu. Bạn đừng tưởng ở các nước tây phương thì việc giữ đạo được thoải mái đâu. Mỗi nhà mỗi cảnh, ở đâu cũng có những triết thuyết và những luận điệu được đưa ra nhằm giảm uy tín của Mẹ Giáo Hội, để con cái không còn nghe và yêu mến Mẹ mình nữa. Xin trích một đoạn trong tác phẩm ‘Điều vĩ đại của Kito giáo’: “Ở Tây Phương có rất nhiều Kitô Hữu phóng khoáng. Một số tín hữu ấy tự khoác cho mình một loại sứ vụ đảo ngược: thay vì là các nhà thừa sai của giáo hội cho thế giới, họ trở thành các nhà thừa sai của thế giới cho giáo hội. Họ dành nhiều sức lực để làm cho giáo hội trở nên dân chủ hơn, để bảo đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ, để hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, và vân vân. Một nhánh nhỏ nhưng có ảnh hưởng của nhóm Kitô Giáo phóng khoáng đã tẩy chay mọi học thuyết cốt yếu của Kitô Giáo”. Dù thế nào đi nữa, Đức Giê su cũng luôn gìn giữ Giáo Hội của Ngài vững bền đến tận thế, vì đó là Hiền thê mà Chúa đã đổ đến giọt máu cuối cùng để cứu chuộc.

Người ta xuyên tạc những biến cố lịch sử như thánh chiến, vụ Galileo, tòa thẩm tra Tây Ban Nha, tòa án phù thủy… và hiện đại hơn là vụ lạm dụng tình dục của một số giáo sĩ, kèm theo nó là tội bao che của một số giám mục. Lập trường của Giáo hội đã rõ ràng: quyết tâm điều chỉnh trong giáo dục để tương lai không còn xảy ra những chuyện như thế, chấp nhận sự thật nếu có những phúc trình cụ thể: cảm thông với các nạn nhân và đền bù thiệt hại theo pháp luật quy định, xin lỗi vì những gương xấu đã xảy ra… thế nhưng truyền thông thế tục và các người công giáo phóng khoáng cứ làm rùm beng mãi cả mấy chục năm nay, để làm giảm uy tín của Giáo hội, để biện minh cho lối sống trần tục của nó, vì tiếng nói của Giáo hội về luân lý và về thiên đàng hỏa ngục làm cho họ nhức óc.

Một trong những lý do chúng ta thường nghe lầm và chọn lầm là vốn liếng giáo lý chúng ta quá ít, cả người lớn và trẻ em ít dùng lý trí để suy nghĩ về những mầu nhiệm trong đạo, không biết lưu trữ những kiến thức thần học mà Chúa gửi đến mình trong cuộc sống. Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sử dụng lý trí của mình để suy tư về những Lời Kinh Thánh, về những mầu nhiệm Kito giáo, về những vấn nạn của kiếp người, vì ai có sẽ được cho thêm. Kiến thức là vốn quý mà ta luôn có thể mang theo bên mình và không ai lấy cắp được, đừng để một ai lung lạc niềm tin của mình bằng những luận điệu lọc lừa.

Ngày Chúa nhật là ngày dành riêng cho Chúa, để học hỏi thêm về giáo lý, để sống với tha nhân và sống với gia đình. Thế nhưng, chúng ta thường ăn cắp của Chúa để lo lắng cho cơm áo gạo tiền, là những thứ chúng ta phải bỏ lại khi đối diện với sự chết. Có câu chuyện kể rằng: có một doanh nhân đi tản bộ và gặp một người ăn xin. Người doanh nhân động lòng thương, ông mở ví để chia sẻ vài đồng bạc cho người khốn khổ kia. Trong ví có 7đ, cả ông và người ăn xin đều biết vậy. Sau khi cho anh kia 6đ, người thương nhân tiếp tục đi dạo. Khi dừng lại ở đèn đỏ chờ qua đường, người ăn xin nãy giờ vẫn theo sát ông mà ông không hay biết, anh ta đánh cắp luôn đồng bạc còn lại của ông. Hãy cố gắng đừng ăn cắp ngày nghỉ ngơi mà Chúa đã thiết lập, ngày này rất hữu ích cho phần rỗi và là dấu chỉ sự nghỉ ngơi vĩnh cửu.

Nguyện xin Đức Khôn Ngoan hằng ngự bên tòa Chúa đến giúp đỡ và làm lụng với con, hầu con biết điều đẹp Thánh Ý. Xin Đức Khôn Ngoan Chúa hướng dẫn con có những chọn lựa tốt đẹp, chọn yêu Chúa hơn là xúc phạm đến Chúa, sống yêu thương tha nhân hơn là hiếu chiến với họ. Và khi giờ từ giã cõi đời, xin cho con được an lòng vì tin tưởng nơi tình thương vô bờ bến của Cha mình.

 

Thứ Ba, 10 tháng 11, 2020

HÔN NHÂN, MỘT TẶNG PHẨM CỦA THIÊN CHÚA

 



(Xin ghi lại một bài giảng trong thánh lễ hôn phối rất tuyệt vời)

Ngắm trời xanh tay Chúa sáng tạo, hiểu ý nghĩa và sự kết hợp nhiệm mầu của 2 người nam nữ trong bí tích hôn phối, con người phải cất lời tạ ơn Thiên Chúa, vì những việc kỳ diệu Chúa đã làm.

Á Thánh Anre Phú Yên đã để lại một câu nói đáng nhớ: “Hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu, hãy đem sự sống đáp đền sự sống”. Câu nói này không chỉ áp dụng cho mối quan hệ giữa con người với Thiên Chúa, nhưng còn có thể mượn phần đầu ‘Hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu’ như là châm ngôn sống cho đời đôi lứa. Người bạn đời sống bên ta thể hiện bao cử chỉ yêu thương hằng ngày, trong nhiều năm, và có lẽ cả đời, thế nhưng ta có nhận ra không? Hay đó là chuyện đương nhiên và bình thường? – Nếu có nhận ra, bạn hãy lấy tình yêu đáp lại tình yêu.



Một trong những đóng góp của Giáo hội Công giáo vào giá trị của hôn nhân là xác định sự bình đẳng của nữ giới và xác định rằng  tình yêu lãng mạn (tự do luyến ái) là yếu tố bền vững của định chế hôn nhân. Nếu bạn không tin những điều trên thì có thể tìm đọc kỹ hơn trong tác phẩm “Điều vĩ đại của Kito giáo’. Trong thế giới La Hy thời đó, vị thế của người phụ nữ và giá trị của hôn nhân bị xem thường, nhưng dựa vào Kinh Thánh, Giáo hội đã khẳng định rằng : người đàn bà là trợ tá - bình đẳng với người đàn ông; ơn gọi hôn nhân cao đẹp vì là hình ảnh của Đức Kito yêu Hội Thánh, yêu đến hiến mình cho Hội Thánh nên xinh đẹp.

Người ta thường nhắc lại câu nói rất thâm thúy của tình yêu hôn nhân: Mình với ta, tuy hai mà một; ta với mình tuy một mà hai. Điều thâm thúy ở đây là nói lên sự bình đẳng, hỗ tương, hiệp nhất trong những điều quan trọng trong cuộc sống. Tuy vậy họ vẫn giữ được sự độc lập cần thiết, vẫn là hai cá tính, vẫn là hai cái tôi tìm cách chung sống bên nhau, với nhau, lâu dài đến trọn đời. Có một câu khác nữa: Yêu nhau là cùng nhìn về một hướng, cha chủ tế còn thêm: Yêu nhau là dù có nhắm mắt lại, hai người vẫn nhìn thấy một vấn đề nào đó, nghĩa là cùng có một bận tâm chung.

Không ai hoàn hảo cả. Bạn đừng tưởng sống với một vị thánh mà hạnh phúc  và dễ dàng đâu. Khi được hỏi đột xuất trong một thánh lễ hôn phối ‘Điều cần thiết để duy trì tình yêu lâu bền là gì?’, cô dâu đã trả lời: đó là sự tin tưởng nhau. Cha chủ tế hỏi thêm: điều gì giúp cho 2 người tin nhau? - thưa đó là sự đối thoại! Đúng vậy, nếu không đối thoại, 2 người sẽ không hiểu nhau, tâm hồn ngày càng xa nhau,càng ngày càng không muốn mở miệng trao đổi tin tức vì dễ sinh ra hiểu lầm nhau. Nếu cần, 2 vợ chồng tìm một địa điểm thích hợp hoặc vào phòng đóng cửa lại để trao đổi những vấn đề cần thiết, tìm cách giải quyết vấn đề.

Dù có tìm hiểu nhau kỹ và lâu bao nhiêu đi nữa, 2 người nam nữ đi đến hôn nhân trong tình trạng lên đường, và có thể nói : cho đến già, họ cũng không thể hiểu hết được nhau, nên dĩ nhiên cuộc sống của họ sẽ xảy ra xung đột, có khi chửi nhau và giận nhau. Điều quan trọng là cách vượt qua những xung đột. Cha chủ tế đưa ra lời khuyên: Hãy xin lỗi nhau. Dù người vợ có sai lỗi, người chồng cũng nên xin lỗi trước, vì thực ra không ai đúng hoàn toàn, và đừng nghĩ rằng ai sai thì lo mà xin lỗi – còn tôi đúng thì sao phải xin lỗi. Khi người chồng xin lỗi thì người vợ sẽ đáp lại bằng tình cảm dạt dào, không thiệt gì đâu.

Trong hôn nhân, có những điều phải giảm và có những điều phải làm cho tăng thêm. Phải giảm bớt sự nóng nảy và thẳng tính quá. Hai điều này nói lên rằng phải biết kiềm chế (tự chủ), sự thật thà là điều đòi buộc của tư cách làm người, nhưng ‘sự thẳng tính quá’ muốn nói đến những lời ta nói ra phải có sự chọn lựa: lựa lời, lựa lúc, lựa người mà nói; còn sự nóng tính bộc trực thì lợi ít hại nhiều trong mọi mối quan hệ. Điều phải tăng thêm là sự quan tâm và những sinh hoạt chung với nhau, vì trào lưu của xã hội hiện đại là mỗi người rút lui vào vỏ ốc của mình bằng các thiết bị truyền thông.

Để kết luận, xin mượn một câu Kinh Thánh : “Ngài giận trong giây lát, yêu thương suốt cả đời”. Vợ chồng có giận thì hãy kíp làm hòa trước khi mặt trời lặn, kẻo ma quỷ thừa cơ lợi dụng. ‘Xây dựng một gia đình hạnh phúc, nên thánh bằng đời sống hôn nhân qua lý tưởng hiến thân phục vụ’, đó là những chỉ tiêu lớn cho một cuộc đời thành công và hạnh phúc, bởi đó có xảy ra bất hòa thì phải tìm cách hóa giải nó hơn là xé ra to, bỏ qua chuyện nhỏ vì chỉ tiêu lớn . Vợ chồng có giận thì giận trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời là vậy.

Thứ Hai, 2 tháng 11, 2020

Tiệc Nước Trời

 



Chúa  Giê su được mời dự tiệc ở nhà một người Biệt phái, ở đó có một người thốt lên một câu rất hay “phúc thay ai được mời dự tiệc Nước Thiên Chúa’ và nhân tiện đó, Chúa kể cho nhân loại nghe câu chuyện những kẻ được mời dự tiệc nước trời (Lc 14,15-24).

Khi dùng cụm từ ‘tiệc Nước Thiên Chúa’, có lẽ người kia muốn nói đến hạnh phúc thiên đàng, vì người Biệt Phái là những người tin có sự sống đời đời. Chúng ta  có thể hiểu thêm ý nghĩa của cụm từ trên còn có ý nghĩa là ơn cứu độ Chúa Giê su mang đến, là đời sống Giáo hội, bữa tiệc đó đã được bắt đầu ngay ở trần gian khi ta được làm con cái Chúa, được giải thoát khỏi vòng nô lệ tội lỗi.

Ai trong chúng ta cũng nghĩ như người đã phát ngôn kia: ‘phúc thay ai được mời dự tiệc Nước Thiên Chúa’. Trong Tin Mừng, Chúa Giê su thường làm chúng ta tỉnh ngộ khi đưa ra những phản đề. Và hôm nay Chúa kể về sự từ khước bữa tiệc Nước Trời vì những lý do rất trần tục và bất kính với chủ tiệc. Đời sống ân sủng của người con cái Chúa, được sống trong thân thể mầu nhiệm Chúa Kitô là một hạnh phúc lớn lao, thế nhưng nhiều người đã để vuột mất vì những lý do trần tục là danh lợi thú, là thỏa các đam mê (đam mê của con mắt, của xác thịt và lòng kiêu hãnh về của cải).

Cha Cantalamessa đã phân biệt ‘chuyện khẩn cấp’ và chuyện ‘cần thiết’. Có những chuyện cần thiết (quan trọng) trong cuộc sống nhưng thường bị bỏ qua; và có những chuyện khẩn cấp (phải làm ngay) nhưng thật ra lại là những chuyện ít giá trị. Người Kitô hữu phải có sự phân biệt giữa những chuyện khẩn cấp và chuyện cần thiết, phải xếp giá trị ưu tiên theo nhãn quan bữa tiệc Nước Thiên Chúa. Có những chuyện làm chúng ta bận tâm và tiêu hao nhiều năng lượng và thời gian nhưng giá trị của nó chỉ là phàm trần, trong lúc lại lơ là những việc mang đến giá trị vĩnh cửu là được hưởng hạnh phúc thiên đàng.

Tháng các linh hồn đã về, là thời gian chúng ta đặc biệt cầu nguyện cho các Đẳng linh hồn, là dịp chúng ta nhìn đến ý nghĩa đời người, là dịp chúng ta làm chứng cho niềm tin về sự sống đời đời. Chúng ta cùng suy nghĩ về hai điều: con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, và tội là gì?

Hình ảnh Thiên Chúa? – Thiên Chúa là Đấng vô hình, và ‘giống hình ảnh Chúa’ là muốn nói: con người có lý trí, ý chí, tự do, có linh hồn bất tử. Vì có lý trí và có tự do, nên con người có quyền chọn tốt chọn xấu và chịu trách nhiệm về hành vi của mình, chọn làm theo ý mình hoặc theo ý Chúa, chọn điều phàm tục hoặc  dự tiệc nước trời.



Tội là gì? – thưa tội là từ khước ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Tình Yêu. Ngài tạo dựng con người để họ được chia sẻ vinh quang của Ngài. Khi con người sa ngã, Tình yêu đó mang thêm sắc diện Lòng Thương Xót: Ngôi Hai làm người, chết và sống lại, để mang lại ơn cứu độ cho loài người. Chỉ những ai đón nhận ơn cứu độ qua việc tin nhận Đức Kitô, chỉ những ai biết ăn ngay ở lành (dù họ chưa rửa tội), chỉ những ai chết trong tình trạng sạch tội trọng, chỉ những ai biết ăn năn hối cải trong giây phút cuối đời mới được vào dự tiệc Nước Trời. Nhiều người nói: người công giáo sướng thật, cứ phạm tội cho lắm rồi xưng tội là  sạch sẽ, kể cả những tội trộm cắp giết người, làm hại người khác cách này cách khác… Không phải thế đâu! Ăn năn hối cải và xưng tội thì được sạch tội, điều đó đúng, nhưng còn phải đền trả nữa chứ, không đền trả đời này thì đền ở đời sau nơi luyện ngục, vì chỉ những ai hoàn toàn trong trắng mới được vào dự tiệc Nước Trời



Chẳng ai trong chúng ta tự tin rằng mình hoàn toàn trong trắng để dự tiệc Nước Trời mai sau mà không phải trải qua tình trạng thanh luyện. Bởi đó, hãy nỗ lực và biết cậy dựa vào ơn Chúa để sống tốt giây phút hiện tại, sống tốt từng ngày, phần còn lại chỉ biết cậy dựa vào lòng Chúa xót thương. Và hãy luôn cầu nguyện cho các Đẳng linh hồn, nhất là những người thân thuộc của mình.

Chủ Nhật, 1 tháng 11, 2020

ƠN GỌI NÊN THÁNH

 


 


Khi mừng lễ các thánh nam nữ trên trời, chúng ta hân hoan cảm tạ Thiên Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu trên cuộc đời các Thánh. Điều đó là đúng, nhưng tự thâm tâm, chúng ta thường nghĩ: tôi không nên thánh được, tôi tầm thường quá, tôi tội lỗi quá! Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói : ơn gọi nên thánh không loại trừ một ai, đó không phải là đặc ân dành riêng cho một nhóm người được tuyển chọn.

 

 


Khi đám đông hò reo “Santo Subito” vào ngày an táng Đức Gioan Phaolô II, 8.4.2005, họ thực sự muốn nói gì? – Họ muốn hô to lên rằng: nơi Karol Wojtyla, họ thấy một con người đã sống thực với Thiên Chúa và đã sống với con người. Ngài là một tội nhân đã cảm nhận được lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa. Ngài là một vị tiên tri và là thầy dạy những điều đúng đắn cho người đương thời và thế hệ kế tiếp. Ngài nhìn ngắm chúng ta, yêu mến chúng ta , đã tiếp xúc với ta, đã chữa lành và ban cho chúng ta niềm hy vọng. Ngài bảo ta đừng sợ. Ngài chỉ cho ta cách sống và yêu, biết cách tha thứ và cách chết. Ngài dạy ta biết ôm lấy thập giá trong những trường hợp nguy kịch nhất của cuộc đời, vì biết rằng thập giá không phải là câu trả lời cuối cùng của Thiên Chúa.

 

Một người được tuyên phong là Thánh không phài là một công bố về sự toàn hảo. Không có nghĩa là người đó không có sự bất toàn, mảng tối, sự điếc và tội. Không phải là họ trong trắng dưới cái nhìn của Vatican. Phong Thánh hoặc Á Thánh cho ai là muốn nói rằng một người nào đó gắn bó đời mình với Thiên Chúa, hoàn toàn tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa từ nhân, họ bước đi với sức mạnh và quyền năng của Chúa, tin tưởng vào những điều bất khả, yêu kẻ thù và những người ngược đãi mình, tha thứ giữa những bất hạnh và bạo lực, hy vọng vượt ngoài mọi hy vọng, và làm cho thế giới nầy tốt đẹp hơn.

 

Người Thánh là người làm cho tha nhân quanh mình nhận ra rằng có một sức mạnh và một tinh thần có khả năng chuyển hóa đời họ, sức mạnh nầy không phải thuộc thế giới nầy mà là ở bên cạnh cuộc đời. Mỗi vị Thánh hé lộ cho ta nét đại cương của sự cao thượng và thánh thiện mà mỗi người được mời gọi hướng tới, họ cho ta nhận ra khuôn mặt Thiên Chúa trong khi  ta đang trên đường lữ hành trần thế. (phần in nghiêng là trích của cha Rosica, CSB)

 

ĐHY Fx. Nguyễn Văn Thuận nói: “Đừng nghĩ rằng làm thánh là suốt ngày đọc kinh, mà quan trọng là chu toàn bổn phận, chu toàn bổn phận là giấy thông hành để vào nước trời”. Thân phận con người là mỏng dòn yếu đuối, Chúa biết điều đó và Chúa đã không lầm khi dựng nên tôi, Ngài ước mong tôi biết ăn năn sám hối và quyết tâm làm lại cuộc đời mỗi ngày.

 

Chúng ta hãy nghe một vài mẩu đối thoại xảy ra ở cửa thiên đàng. Chúa nói với một người đàn ông rằng: ‘Con khá lắm! vì đã không bỏ Ta khi Ta già nua bệnh hoạn, vẫn chăm sóc và yêu thương Ta hằng ngày, dù Ta run rẩy, vô dụng, xấu xí’. Chúa nói với một người đàn bà vừa lìa thế: ‘con cũng rất tốt, đã không bỏ Ta khi Ta lâm bệnh nặng, vẫn chung thủy dù Ta bất tài nhiều tật, vẫn chăm sóc Ta từng ngày với những công việc nội trợ vô danh để giữ hơi ấm cho gia đình’. Chúa nói với một người trẻ: ‘Con hãy vào đây với Ta, vì con đã biết vâng lời và ngoan hiền với Ta trong nếp sống gia đình, đã chăm chỉ với bổn phận hằng ngày vì yêu Ta’. Và Chúa cũng nói với một số người khác: Hãy cút khỏi mặt Ta, hỡi những kẻ làm điều gian ác!

 

Ma quỷ thường rỉ tai ta rằng: mày không làm thánh được đâu, vì mày đã phạm tội nhiều và sẽ còn tiếp tục phạm tội dài dài, mày xấu xa lắm, xa Chúa lắm. Sự bối rối và mất lòng trông cậy làm tiêu  hao năng lực thiêng liêng của ta rất nhiều. Hãy nhớ lời Chúa Giê su dạy: muốn vào nước trời thì ta phải trở nên như trẻ nhỏ: sống đơn sơ và tin tưởng Thiên Chúa, luôn tìm vâng theo ý Ngài trong mọi sự - kể cả sự chết.

 

 

Chủ Nhật, 18 tháng 10, 2020

Thiên Chúa là tình yêu


Không biết đã từ bao giờ, từ trong tâm thức, người có đạo luôn nghĩ rằng theo đạo là phải làm điều này, tránh điều nọ... Nghĩ như vậy thì đi đạo trở thành một gánh nặng, nặng đến nỗi có nhiều người đã bỏ đạo.

 Đúng hơn, theo đạo là bước vào một cuộc tình. Có bao giờ ta thấy không thích gặp người mình yêu? Hãy thay đổi não trạng: Thiên Chúa đã yêu tôi trước, Ngài là người cha tốt lành, Ngài lo lắng cho tôi mọi điều và mong chờ tôi đáp lại tình yêu đó.

Thứ Năm, 8 tháng 10, 2020

Ai xin thì được

Lời Chúa nói rõ ràng: ai xin thì được, ai tìm thì thấy, ai gõ thì sẽ mở cho (Lc 11,9-10). Chúng ta có thể hiểu ngược lại: ai không xin thì không được! Dĩ nhiên trong nghĩa ‘tương đối’, vì Cha trên trời vẫn làm mưa trên kẻ lành người dữ, kẻ ý thức cũng như kẻ không tin Ngài, kẻ xin cũng như kẻ không xin.

Ở đây, Chúa muốn nói với chúng ta rằng Thiên Chúa ban nhiều ơn lành tùy theo lòng trông cậy của chúng ta. Mặc dù Thiên Chúa luôn đi bước trước trong việc tìm kiếm con người, nhưng Chúa cũng đòi hỏi sự cộng tác, sự nỗ lực của con người: phải đưa tay gõ, cất bước tìm và lên tiếng xin. Có câu chuyện kể rằng: có một người là thành viên của nhóm sinh hoạt đạo đức, nay bỗng dưng bỏ bê việc cầu nguyện. Người hướng dẫn tìm đến nhà để tìm hiểu nguyên do và được người kia cho biết là chán cầu nguyện vì nghĩ rằng: Chúa là Đấng quyền năng nên Ngài biết hết những nhu cầu của con người trước khi họ kêu xin, Chúa là Đấng tốt lành nên Ngài sẽ lo liệu điều tốt nhất cho từng người dù họ có xin hay không, Chúa có một kế hoạch cứu độ cho toàn thể vũ trụ nên những điều ta xin trái với kế hoạch đó thì không bao giờ thành tựu, vì những điều ta xin không thay đổi được kế hoạch vĩnh cửu của Chúa. Người thầy mới kể một câu chuyện: thầy có một người bạn làm ruộng, thửa ruộng rất tốt và thu hoa mầu rất nhiều, thế mà nay anh bạn ấy biếng nhác bỏ bê nên ruộng toàn cỏ dại, lý do là anh bạn ấy nghĩ rằng: Chúa biết tôi có nhu cầu về lương thực, Chúa là Đấng quyền năng nên không cần sự góp tay của con người, Chúa là người cha nhân lành nên tôi không cần làm nữa, cứ để Chúa lo liệu. Người học trò thấu hiểu ý nghĩa của câu chuyện, đã thưa lại: Vâng, con sẽ đến tham dự các buổi sinh hoạt đạo đức của nhóm, vì con đã hiểu ra ‘Thiên Chúa là Đấng tốt lành, nhưng con người cũng phải cầu nguyện và góp phần của mình để kế hoạch của Chúa được thành tựu’.
Vấn đề cầu nguyện cũng là một vấn đề then chốt trong giáo lý Kitô, vì ‘chính nhờ Người, với Người và trong Người’ mà chúng ta hiện hữu và hành động. Ấy thế mà ai trong chúng ta cũng cảm thấy nỗi cay đắng vì Chúa thường không nhậm lời mình xin. Chúng ta cùng ôn lại vài điều các nhà tu đức đã dạy về việc cầu nguyện. Hãy xác tín rằng: Chúa đã nhậm lời ta xin. Chúa nói rằng cha mẹ trần gian tuy là ác (so với Chúa) mà còn biết lấy của lành mà cho con cái, thì Chúa sẽ kíp ban Thánh Thần (ơn trợ giúp) cho mọi kẻ kêu xin. Sau khi xin bất cứ điều gì, ta có thể dâng lời tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban ơn, tuy vậy hãy để cho Chúa tự do về thời gian và cách ban ơn. Thường chúng ta hiểu phép lạ là điều xảy ra khi Thiên Chúa làm theo ý con người nhưng phép lạ cũng thường xảy ra khi con người chiều theo ý Chúa. 

Đừng ra hạn cho Chúa (Gđt 7,30-32) và cũng đừng ép Chúa phải ban ơn này ơn nọ, tốt hơn là xin cho ý Chúa được thể hiện trong biến cố này và xin cho mình biết vui lòng đón nhận ý Chúa. Cha Cantalamessa nói: mỗi lần đọc kinh lạy cha, đến câu ‘xin cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời’, chúng ta thường cúi đầu xuống và có một nỗi sợ mông lung nổi lên trong thâm tâm rằng Chúa sẽ làm mình khổ, chúng ta quên rằng Thiên Chúa là Cha nhân lành luôn muốn điều tốt đẹp nhất cho từng người con cái mình. Thiên Chúa ban ơn tùy lòng trông cậy của ta. Theo thời gian và kinh nghiệm đức tin, chúng ta thường kém lòng trông cậy và dẫn đến kém lòng tin, mà lòng trông cậy là điều kiện cần thiết để Chúa ban ơn.

 Nhiều lần Chúa nói với ta là phải trở nên như trẻ nhỏ biết đơn sơ tín thác mọi sự cho cha mẹ định liệu, không so đo tính toán và không kể công hay cậy quyền. Đọc trong Tin Mừng khi kể về những phép lạ Chúa làm, Chúa thường nói ‘con tin sao thì được vậy’, cũng may mà không có ai kém tin đến nỗi không được lành. Khi trở về thăm quê hương Nagiaret, Chúa Giêsu chỉ thực hiện một vài phép lạ nhỏ, vì dân chúng ở đó không tin.

 Thiên Chúa ban ơn tùy lòng thương xót của Chúa chứ không theo công trạng của con người. Điều này làm cho chúng ta an tâm, vì ai trong chúng ta cũng là những tội nhân và bất xứng với muôn ơn lành Chúa ban. Điều quan trọng là phải có lòng tin, hoặc của người xin ơn hoặc của người can thiệp. Dĩ nhiên chúng ta vẫn thường đi đến những địa danh và nhờ đến những người có ơn nghĩa với Chúa thì ân ban thường được dồi dào hơn, điều đó cũng là bình thường vì ở đó niềm tin được biểu lộ mãnh liệt hơn.

 Đức tin và đời sống đạo của ta được nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện, có thể nói ngược lại: một người sa ngã và sống tầm thường là vì họ đã bỏ cầu nguyện lâu ngày. Bởi đó trau dồi đời sống cầu nguyện thật là quan trọng. Chúa dạy ta phải kiên trì cầu nguyện, tin tưởng mãnh liệt rằng việc Chúa muốn và khi Chúa muốn thì mọi sự đều có thể xảy ra, kể cả những điều con người không dám mơ và chưa từng nghĩ đến. Dù thế nào đi nữa thì bạn hãy vững tin vào Chúa và dám cất lời tạ ơn Ngài: ‘tạ ơn sự sống dẫu không may, tạ ơn sự chết dẫu không hay, tay Chúa an bài giữ gìn chẳng ngơi’ (lời bài hát). Lạy Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, giúp chúng con mỗi ngày biết làm tươi mới lại niềm tin và tình yêu với Chúa. Amen.

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2020

Phân chia gia tài



Người VN mình thường để lại toàn bộ gia sản của mình cho con cái, do vậy thường xảy ra những bất hòa trong gia đình về chuyện chia không đều, đứa nhiều đứa ít. Khác với người tây phương, con cái thường chỉ nhận một số tài sản vừa đủ để khởi nghiệp, không quá nặng nề vào việc phân chia gia tài và thậm chí muốn tự lập để khẳng định mình.

Đọc lại dụ ngôn Người Cha nhân hậu (Lc 15,11-32), chúng ta mới thấy nghịch lý của Tin Mừng: người cha cư xử với đứa con hoang đàng với lòng thương xót, vượt xa lẽ công bằng. Sự thường người VN mình chia đất đai cho con cái đứa nhiều đứa ít tùy công trạng và tình cảm, tùy mong ước sự phụng dưỡng của nó lúc về già, tùy nó là con cả hay con thứ- con trai hay con gái… và việc phân chia gia tài này thường để lại những bất bình lớn, đến nỗi đến lúc cha mẹ sắp chết mà có những đứa con không thèm gặp, lúc đau ốm không thèm nhìn và anh em đối xử với nhau tệ hơn người dưng, vì sự uất hận về sự không công bằng đã che khuất tầm nhìn của tình thương xót, của tình huynh đệ - máu mủ. 

Niềm hạnh phúc của các bậc cha mẹ là con cái mình yêu thương đùm bọc nhau trong cuộc sống, và trước khi nhắm mắt cũng thường dặn dò con cái như thế. Nhưng thật khó để yêu thương khi anh em có những mâu thuẫn về gia tài! Vì khi đó những người trong cuộc thường dựa vào lẽ công bằng như họ nghĩ: nó đã được chia rồi, nhưng nó đã làm tiêu tán, bây giờ nó rán chịu, chúng tớ chẳng có lỗi gì! Ở đây, chúng ta phải đọc lại Tin Mừng: đứa con thứ đã phung phá hết tài sản của nó mà vẫn được cha đón nhận, trong lúc người anh thì nạnh kẹ và loại trừ. Cũng may là chỉ có một người anh cả, còn như trong gia đình ấy có 5 người anh thì người cha cũng khó mà xoay xở cho êm đẹp! 

Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã từng chứng kiến cảnh một người cha mẹ hấp hối nhiều ngày, muốn nhắm mắt xuôi tay mà không ‘đi’ được, dường như đang uất hận và trăn trở một điều gì đó. Cũng có thể là do diễn tiến bình thường của quy luật sinh học, nhưng cũng có thể là còn điều gì đó vướng mắc, nhất là về tình cảnh của những đứa con mình đã đứt ruột sinh ra. Có những điều khi khỏe mạnh đã không giải quyết được theo lẽ công bằng nhân loại, thì đến lúc này làm sao giải quyết được, may ra sự khắc khoải của họ có khơi dậy được lòng thương xót chăng? Cũng giống như sự hiện diện của những người nghèo quanh ta được xem như cơ hội để lòng trắc ẩn được trỗi dậy, như cơ hội để ta hành thiện.


 

Gia tài cha mẹ để lại nên được xem như miếng bánh (món quà), anh em chia nhau mà ăn. Nếu chẳng may một đứa bị sẩy chân thất bại hoặc do lười biếng, bài bạc … anh em ruột thịt cũng nên vì tình thương cha mẹ mà nghĩ lại mà tìm cho nó một giải pháp, để cha mẹ có thể yên lòng nơi chín suối. Chúng ta muốn Thiên Chúa cư xử với mình với lòng thương xót thì hãy cư xử thương xót với nhau: ai sống làm sao Ta sẽ xử cho như vậy. Nói vậy, nhưng có đứng vào hoàn cảnh đó mới thấy khó mà đưa ra một giải pháp mang tính cách mạng như Tin Mừng đòi hỏi, phải có tiếng nói ‘tiên tri’, ân lộc của tổ tiên và thật nhiều ơn Chúa mới đủ sức lay động nhiều con tim, chuyển hóa những ‘tính toán của công bằng’ thành ‘chia sẻ của tình thương’.

Thứ Tư, 23 tháng 9, 2020

Vua Hê rô đê tìm cách gặp Đức Giêsu


 

Đọc câu Tin Mừng Lc 9,9 chúng ta nhận ra rằng đây là một cái kết lửng: nhà vua có thực sự muốn gặp Đức Giê su không? Mục đích tìm gặp là gì? Và chính cái kết lửng này gây ra một sự phản tỉnh cho chính chúng ta. 

Nếu vua Hê rô đê thực sự muốn tìm gặp Đức Giê su thì quá dễ, vì suốt 3 năm trời Chúa đã giảng dạy công khai khắp đất nước Do Thái, vậy mà trong đám đông nghe Chúa, không thấy xuất hiện khuôn mặt Hê rô dê, hoặc giả như ông có đến nhưng không gặp được hạt giống Lời Chúa. Mãi đến ‘giờ’ của Chúa Giê su, ông được quan Phi la tô chuyển Đức Giê su đến mà xét xử, nhưng ông chỉ nhận ra ông Giê su là một ‘người dại, chẳng biết gì’, nên ông trả phạm nhân về lại cho quan Phi la tô. Đây là một cái kết buồn cho cuộc đời vua Hê rô đê, kẻ đã có cơ duyên gặp cả Gio an Tẩy Giả và Chúa Giê su. Như vậy, sau vụ án Chúa Giê su thì chúng ta đã nhận ra rằng vua Hê rô dê tìm cách gặp Đức Giê su chỉ để thỏa tính tò mò, khác xa với sự tìm gặp của các mục đồng hoặc của Ba vua, là những người tìm đến với hài nhi Giê su để thờ lạy. Câu chuyện của vua Hê rô dê cũng là câu chuyện của biết bao nhiêu người, họ tìm hiểu tôn giáo nhưng không gặp được Đức Giê su như Đấng khơi nguồn sự sống, bởi lòng họ đầy những ‘lo lắng sự đời’, nên Lời Chúa đã bị chết ngạt.

Đối nghịch với thái độ hời hợt trên, Chúa Giê su đã gặp biết bao tâm hồn nhiệt tình: đã gặp Ngài là họ bỏ hết mọi sự để sống chết với Ngài. Có thể kể đến các tông đồ, chỉ trừ Thánh Gioan, họ đã có vợ con và nghề nghiệp, nhưng đã bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêu su đến chết để làm nhân chứng cho Ngài. Người đời sợ nhất là chứng từ tử đạo, nên người đời thường bôi nhọ các Đấng bằng cách vu cáo cho họ những lý do phàm tục: đốt thành Ro ma, phản quốc... và bêu xấu các Ngài những tội lỗi xấu xa mà chính họ phạm phải. Nhưng chính những kẻ kết án các vị tử đạo đều biết rõ: các Đấng bị giết vì không chịu thờ lạy các bụt thần, vì không chịu chà đạp Thánh giá Chúa Kỉ tô. 

Tôi cứ bị ám ảnh mãi một chứng từ mà tác phẩm ‘Tự do nội tâm’ đưa ra. Đó là chứng từ của Etty Helisum. Cô này là người Do Thái, chưa lãnh bí tích rửa tội nhưng được biết đến giáo lý công giáo qua một người bạn Do Thái khác. Trước khi xuống tàu để di chuyển về trại tập trung ở Đức đã có một lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, con biết rằng con đang đi đến một địa điểm chết chóc, con biết bao gian lao khủng khiếp đang chờ con ở đó, nhưng Chúa không thắng được con đâu. Dù xảy ra chuyện gì, con vẫn vững tin vào tình thương Chúa và trông cậy mọi sự nơi Ngài. Ký tên Etty Helisum”. Cô viết như thế, cô bỏ miếng giấy vào một lọ thủy tinh dán kín và thả xuống biển và sau này người ta đã nhặt được chứng từ tử đạo của cô. 

Hầu hết chúng ta đều được cha mẹ lo liệu cho rửa tội từ nhỏ, chúng ta không vất vả tìm kiếm đức tin, và chúng ta chỉ tìm cách hiểu biết thêm về Chúa Giêsu theo tuổi đời lớn khôn. Chúng ta dễ bị một khiếm khuyết lớn là không có mối liên hệ cá vị (riêng tư) với Chúa Giê su như một người bạn, như một người thầy và như Đấng khơi nguồn sự sống. Chúng ta dễ nghĩ rằng theo đạo là đọc kinh, là giữ các giới răn để đừng phạm tội để rồi khi chết là được lên thiên đàng, chúng ta dễ quên rằng: Chúa Giê su ngày ngày vẫn gõ cửa tâm hồn ta, mong chờ ta mở cửa lòng mình để Chúa và tôi trải qua một cuộc tình nồng thắm như ‘thuở ban đầu của đôi trai gái’.

 Đừng nghĩ rằng: điều cốt yếu của đời sống đạo là cố gắng chu toàn lề luật và những bổn phận để không bị Chúa phạt, nhưng là yêu Chúa một cách nồng nhiệt như em thơ với cha mẹ mình: tin tưởng mọi sự, phó thác mọi sự và để Chúa dìu mình đi từng ngày trên cuộc đời. Mỗi ngày tôi phải cố gắng tìm gặp Chúa bằng cách khám phá ra rằng; Chúa đang hiện diện trong lòng tôi, rằng tìm kiếm ý Chúa là điều quan trọng nhất, rằng cách cư xử tốt đẹp nhất với tha nhân là cư xử với tình thương, và rằng: tôi không đơn côi, tôi được Chúa tha thứ quá nhiều và ban ơn quá dư tràn, nên tôi không ngừng ca tụng Chúa – yêu mến Chúa và yêu anh em như lòng Chúa mong ước. 


 

Tiên tri Isaia có nói: "Hãy tìm Chúa khi Người còn cho gặp, kêu cầu Người lúc Người ở kề bên" (Is 55,6). Vậy là có lúc con người không còn cơ hội gặp Chúa? - Đó là lúc cuộc đời họ kết thúc, lúc ấy họ không còn lập công và cũng không còn phạm tội, đó là lúc Thiên Chúa đưa ra kết luận cuộc đời họ đáng thưởng hay đáng phạt. Hãy nghĩ đến ngày tận số mà chấm dứt hận thù, nhớ mình sẽ phải hao mòn và phải chết mà trung thành giữ các điều răn (Huấn ca 28,6).

Những điều thị phi


 

Lời Chúa Giêsu nói với chúng ta: có thì nói có, không thì nói không, thêm thắt bịa đặt là do ma quỷ. Lời ấy là một thách đố với mọi thời đại, và đến hôm nay thì nhân loại đang trải qua một cơn đại dịch: sự dối trá đang lan tràn và lên ngôi, trong đời thường và các phương tiện thông tin. 

Tôi nhớ đến câu chuyện của tổng thống Mỹ, ông Clinton: “Tháng 1-1998, ông Clinton bác bỏ có quan hệ tình dục với Lewinsky. Nhưng đến tháng 8 cùng năm, dưới sự chất vấn của công tố viên đặc biệt Kenneth Starr trước một bồi thẩm đoàn liên bang, ông Clinton thừa nhận có quan hệ "sai trái" với cô Lewinsky. Tuy nhiên, vì không đủ số phiếu để kết tội, sau đó ông Clinton được thượng viện tha bổng.” (internet). Các vị tổng thống Mỹ đều đặt tay trên cuốn sách Kinh Thánh khi tuyên thệ nhậm chức, và đối với họ thì sự dối trá và che đậy sự thật còn xấu hơn là chính tội lỗi đã phạm phải. 

Tôi nhớ đến một câu chuyện khác. Có một người cha trồng một cây gì đó rất quý, người mẹ sai người con đi làm cỏ trong vườn và cậu đã nhổ luôn cây quý của cha. Người cha vô cùng tức giận vì cây quý, nhưng vẫn ôn tồn hỏi người con: ai đã nhổ mất cây quý của ba? – Người con đáp: chính con đã nhổ nó vì không phân biệt được cây cỏ trong vườn. Người cha liền xoa đầu con và bảo: sự thật thà của con còn quý hơn cây quý ba trồng. Điều quan trọng nhất trong giáo dục con cái là phải giữ được sự trong sạch tâm hồn, đó là sự trung thực.

Có một câu danh ngôn: Khi một người đã quen nói dối thì không có điều gì mà họ không dám làm. Điều tôi muốn nói ở đây là cách đối phó với tiếng thị phi trong cuộc sống: người ta nói xấu và vu cáo mình vì một điều xấu mình không làm. Phản ứng đầu tiên chúng ta thường tức giận. Sự tức giận thể hiện qua việc chửi bới nhau, kể cho người khác nghe để tìm kiếm đồng minh, đâm đơn ra tòa để tìm công lý và bảo vệ danh dự gia đình. Nhưng dường như đây không phải là cách xử sự khôn ngoan, vì sao? - Vì đây là cách xử sự của người trần gian, tôi nghĩ đến cách xử sự của người con cái Chúa. Trước hết ta thử phân tích cách xử sự trên đem đến hậu quả gì.

Hậu quả đầu tiên là mất an bình, mất tình nghĩa với tha nhân và chẳng bao giờ chúng ta chắc chắn rằng mình bảo vệ được danh dự của mình cho đến chết, và danh dự trần gian cũng chẳng quan trọng gì mà lo lắng quá đến nó. Chúa nói: các con sẽ bị ghét bỏ, bị vu cáo vì Danh Thầy. Chúa còn cho các kẻ Ngài yêu được phúc chịu hiểu lầm, đến nỗi bị giam lỏng để thêm lòng đạo đức và thêm công phúc, như thánh Piô 5 dấu và thánh Faustina. Chính Chúa Giêsu cũng bị vu cáo là kẻ lộng ngôn và quỷ ám, bị ghét hơn tên trộm cắp giết người là Baraba.


 

Cách xử sự của người con Chúa. Hãy học Chúa Giêsu: im lặng không phản kháng, kết hợp với Thiên Chúa Cha, cầu nguyện và tha thứ cho kẻ làm khốn mình. Lộ trình rõ ràng phải như thế, nhưng không dễ đi đến đích mà không phạm sai lầm và phải có thời gian để lắng đọng tâm hồn. Tôi muốn bàn thêm về ba bước để hóa giải những vu cáo mà người khác đổ trên đầu ta.

 Im lặng không phản kháng. Chúa Giêsu đầy quyền năng có thể phán một lời là những kẻ vu cáo phải diệt vong, Chúa biết trước mọi sự, nhưng Chúa đã tự nguyện chịu cực hình là để cứu độ nhân loại. Chúa tự nguyện và chủ động chịu thương khó chứ không phải là xui xẻo. Phần chúng ta, không mấy người tự nguyện chọn chịu sỉ nhục và đau khổ mà là bị động: do người khác hoặc do hoàn cảnh xảy đến mà tôi phải mang lấy ách. Hãy chạy đến với Chúa Giêsu để học nơi Ngài sự hiền lành và khiêm nhường và xin Ngài đồng hành để ách ta đang mang trở nên nhẹ nhàng hơn. Trước kẻ làm khốn mình, hãy ‘nhịn và chào nó’, đừng để xe đổ rác vướng vào mình làm chi cho khổ.

Kết hợp với Thiên Chúa. Mỗi ngày và mọi lúc ta phải luôn cậy nhờ ơn Chúa để tồn tại và tiến bước, nhưng nhất là những lúc chịu đau khổ ta càng cần phải bám vào Chúa nhiều hơn, những lúc chịu sỉ nhục ta mới thấy mình bất lực và cần ơn Chúa nhiều hơn. Như vậy, đau khổ và sỉ nhục là cơ hội để ta gần Chúa hơn. Xin trích hai câu nói của ĐHY Nguyễn Văn Thuận. “Nếu con hiểu biết hạnh phúc được làm con Chúa, thì những điều sỉ nhục không thấm gì con và những lời hoan hô cũng chẳng thêm gì cho con”. “Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con khiêm nhượng thật”.

Tha thứ và cầu nguyện cho kẻ hại ta. Chúa Giêsu không thanh minh điều bị vu cáo, không than thân trách phận, không chửi rủa và oán trách Thiên Chúa Cha, nhưng Chúa Giêsu đã cầu nguyện và tha thứ cho kẻ làm khốn mình. Sự thường, chúng ta vẫn than thân trách phận và tự thương hại mình, chính điều này chứng tỏ sự chưa trưởng thành về tâm lý và làm tiêu tán nghị lực của ta rất nhiều. Chúa dạy ta: dù trong hoàn cảnh nào, người con cái Chúa phải luôn có cách cư xử bằng tình thương. Chẳng lẽ cả đời này cứ đi cãi nhau và kiện nhau khi có kẻ cứ thích ném những lời thị phi như trò đùa, vì họ thấy ta đau đớn? – Đừng để mình mắc vào chiếc bẫy mà họ giăng ra. Tại sao ta không cậy nhờ và bàn hỏi đến linh mục mà cứ chạy đến tòa đời để giải quyết ba cái lăng nhăng gọi là ‘danh dự’. Thử tưởng tượng: những kẻ giải quyết kiện tụng là những người ngoại đạo, họ sẽ cười vào mặt những kẻ có đạo gọi là đạo yêu thương. Ai vu cáo gì mặc họ, họ chịu trách nhiệm trước mặt Chúa. Còn tôi, có Chúa ở cùng tôi, lương tâm tôi thanh thản vì không làm gì sai trái là đủ. Chúa biết là được, có Chúa làm gia nghiệp là đủ. Danh dự của tôi và của gia đình không quá quan trọng đâu, chính Chúa sẽ lo liệu cho tôi, và chính cuộc sống của tôi làm bảo chứng cho sự trong sáng của mình.

Nguyện xin Đức Khôn Ngoan của Chúa hướng dẫn bước đường con đi. Xin biến đổi lòng con và cho con quả tim như Chúa: luôn biết quảng đại và luôn tha thứ. Và xin Chúa cũng ban ơn biến đổi cho kẻ gieo tai họa cho con nữa để họ cũng được cứu độ và trở nên tốt lành như lòng Chúa mong ước. Amen.

Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

Đức Giêsu là ai?



Có thể nói câu hỏi này là một câu hỏi then chốt trong cuộc đời của mỗi người và của xã hội. Nếu một người tin rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa thì họ tin ‘có’ Thiên Chúa và quyền năng của Ngài, chấp nhận những mạc khải của Ngài qua suốt dòng lịch sử và một cách đặc biệt qua Người Con nhập thể cứu đời. Còn nếu một kẻ tin rằng Đức Giêsu chỉ là một con người rất đặc biệt trong quá khứ thì chắc chắn cuộc sống của họ rất khác với nhóm người trên.

Khi Chúa Giêsu bắt đầu đi rao giảng Tin Mừng, Chúa làm rất nhiều phép lạ như chữa cho người mù được thấy, người què đi được, kẻ câm nói được, kẻ chết sống lại và người nghèo được nghe Tin Mừng. Ông Gioan Tẩy Giả sai các môn đệ đến hỏi Chúa một câu: “Có phải Ngài là Đấng phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một ai khác?” (Mt 11,3). Ông Gioan là kẻ đã từng thấy Thánh Thần như chim câu ngự xuống trên Chúa Giêsu và nghe tiếng từ trời phán: “Đây là Con chí ái Ta, kẻ Ta đã sủng ái” (Mt 3,16). Đang bị nhốt trong ngục, ông Gioan sai người hỏi câu đó là vừa để thêm lòng xác tín về sứ mạng của mình, vừa để giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ.

Khi người Do Thái nghe Chúa Giêsu giảng dạy giáo lý, đặc biệt về những mầu nhiệm nước trời và về Thiên Chúa Ba Ngôi, nhiều người đã tin nhưng có kẻ cứ lần lựa mãi, cứ đòi dấu lạ hoài mà chẳng chịu tin. Giả như chiều hôm Chúa chịu nạn, trước sự thách thức của đám đông ‘nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin!’ mà Chúa xuống khỏi thập giá một lát rồi tự treo lên lại; và giả như thời điểm Chúa phục sinh, Chúa tập hợp cả một đám đông lại cho họ chứng kiến rõ ràng… thì tôi tin rằng luôn luôn vẫn có kẻ không tin, tại sao vậy? – Thưa, vì phải thay đổi não trạng và cuộc sống cho phù hợp với điều Chúa dạy.

Ngày hôm nay, những Kitô hữu trả lời cho câu hỏi của Chúa thì không khó khăn gì, vì giáo lý đã dạy rõ ràng: ‘Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Nhưng hãy để cho câu trả lời này đi vào cuộc đời là một điều khác. Thực tế nhiều người Kitô hữu đã mất đức tin lúc nào mà không hay biết, họ tin Đức Kitô Con Thiên Chúa đã cứu nhân loại khỏi tội lỗi, và họ dừng lại ở việc ăn ngay ở lành là đủ. Nhưng thế nào là ăn ngay ở lành khi không có Đức Kitô là chuẩn mực và không có ân sủng của Ngài trợ giúp thì chưa biết đâu là điểm dừng. Tin vào Đức Giêsu là bước vào một mối quan hệ thâm sâu của vợ chồng, vừa tình cảm vừa lý trí, vừa thiêng liêng vừa cụ thể bằng hành động. Tin vào Đức Giêsu, Đấng đã yêu thương hiến mạng vì tôi, đòi buộc tôi đáp trả lại tình Ngài bằng những hành động cụ thể: cầu nguyện với Ngài, tìm hiểu và đọc Lời Ngài, yêu mến Hội Thánh của Ngài, và quảng đại yêu người khác là hiện thân của Chúa. Lời cầu Chúa Giêsu rất phù hợp để chúng ta đọc mọi nơi mọi lúc: “Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con”.

Xã hội trần tục ở bất cứ đâu cũng ‘dị ứng’ với cụm từ ‘Đức Giêsu là Con Thiên Chúa’ là vì giáo lý của Ngài đi ngược với những đam mê trần tục của nó, dù là chủ nghĩa tư bản hay xã hội chủ nghĩa, dù bên tây hay bên ta, dù quá khứ hay hiện tại. Mọi thời và mọi lúc, Giáo hội luôn chống lại việc người bóc lột người và bảo vệ những người nghèo và bị bỏ rơi; GH dạy rằng phải tôn trọng sự sống, tôn trọng của cải người khác, bảo vệ định chế hôn nhân; GH dạy rằng phải thờ phượng Chúa là nguyên thủy và cùng tận của mọi loài, ngoài Chúa ra chẳng có thần nào khác, điều này làm cho những nhà độc tài không được toàn quyền ra lệnh và được bái thờ như thần thánh, vì thế họ ra sức bôi nhọ Giáo hội để tiếng nói của Giáo hội chẳng được ai nghe để họ dễ bề truyền bá những giá trị phù phiếm, trần tục.

Câu trả lời của Thánh Phêrô: “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” phải luôn vang vọng trong từng chọn lựa mỗi ngày sống của ta. Có những thời khắc đặc biệt như khi rửa tội hoặc khi ta chọn bậc sống thì âm vang của ‘câu thưa’ trên mang tính tất yếu, nhưng những lúc khác trong cuộc sống thì ‘câu thưa’ trên mang tính chọn lựa giữa thiện và ác, giữa cái tốt hơn và cái tầm thường, để rồi mỗi người sẽ tiến lên hay lùi lại trên hành trình theo Chúa Kitô, là Chúa và là vị Hôn Phu của lòng ta.



Thứ Ba, 11 tháng 8, 2020

BỔN PHẬN SỬA LỖI NHAU.



            Bài chia sẻ đoạn Tin Mừng Mt 18,15-20 của cha Cantalamessa.

            Trong bài Tin Mừng này, chúng ta đọc thấy: “Chúa Giê-su nói với các môn đệ: ‘nếu anh em con lỗi phạm, hãy đi và sửa dạy nó cách kín đáo; nếu nó nghe con, con đã cứu được người anh em’”.

 Chúa nói đến sự lỗi phạm chung chung; Người không nói cụ thể trường hợp anh em xúc phạm đến ta. Vì nếu khi ta bị xúc phạm, thì rất khó mà phân biệt được ta sửa dạy anh em vì lòng nhiệt thành hay vì bị chạm tự ái. Trong mọi trường hợp, hãy coi chừng ta hành động vì tự ái hơn là vì sửa dạy huynh đệ. Khi anh em xúc phạm đến ta, bổn phận trước hết là phải tha thứ hơn là sửa dạy.
Tại sao Chúa lại dạy ta sửa lỗi anh em cách kín đáo? – Trước hết vì cách sửa dạy này bảo vệ danh dự và tiếng tốt cho người khác.

            Một điều rất tệ hại là khi ta muốn sửa lỗi người chồng trước mặt người vợ hoặc sửa lỗi người vợ khi có người chồng hiện diện, người cha trước mặt con cái, thầy giáo trước mặt học sinh, người bề trên trước mặt các môn sinh; nghĩa là trước mặt những người mà sự quý mến của họ rất quan trọng đối với người mà ta sửa lỗi. Trường hợp này, việc sửa lỗi trở nên một sự kết án công khai, rất khó để người kia chấp nhận, vì danh dự của họ bị tổn thương.

            Hơn nữa, khi sửa lỗi cách riêng tư, là ta cho người kia cơ hội bàu chữa và cắt nghĩa về hành động của mình cách tự do. Rất nhiều khi một hành động với cái nhìn khách quan là lầm lỗi, nhưng lại không đúng với ý hướng của người thực hiện chúng. Một lời minh giải rõ ràng đã làm sáng tỏ nhiều hiểu lầm đáng tiếc… Nhưng điều này không thể xảy ra khi một người bị sửa lỗi cách công khai và sự việc được nhiều người biết.

 Có trường hợp, vì một lý do nào đó, sự sửa lỗi anh em không thể diễn ra cách kín đáo vì có một sự trục trặc nào đó, sự việc bị tỏ lộ không do lòng tốt: một lỗi lầm của người anh em được thổi phồng và vu cáo vì ác ý. "Anh em đừng nói hành nói xấu nhau” (James 4,11). Tật lắm mồm không bao giờ vô hại, nó luôn xấu xa và đáng trách.

            Một hôm có người đàn bà đến thú tội với thánh Philip Neri là mình đã nói xấu người khác nhiều lần. Thánh nhân đã tha tội cho bà với một việc đền tội hơi lạ lùng: “Bà hãy về nhà và mang tới đây một con gà mái, nhưng trên đường đi, bà phải vặt cho sạch lông nó”. Khi thánh nhân gặp lại bà, Ngài liền bảo: “Bây giờ bà hãy trở về nhà, nhưng dọc đường bà hãy nhặt lại cho hết những lông gà khi nãy”. Bà ta thưa lại: “Thưa Ngài, không thể được! Vì gió đã thổi chúng bay khắp nơi”. Thánh nhân mới bảo bà: “Cũng như vậy, chúng ta không thể nhặt lại những lời ba hoa và những lời vu khống một khi chúng bay ra khỏi miệng ta”.

 Trở lại với vấn đề sửa lỗi nhau, chúng ta có thể nói rằng điều tốt đẹp khách quan không luôn tùy thuộc nơi chúng ta; mặc dầu chúng ta có ý tốt, nhưng chắc gì người kia đã chấp nhận, có khi họ còn chai lỳ ra nữa. Nhưng điều này có thể được bù lại: Khi chính ta được sửa lỗi, điều tốt khách quan hoàn toàn tùy thuộc nơi ta! Thực sự, chúng ta rất có thể là kẻ “có tội” và người sửa lỗi cho ta chính là chồng, vợ, bạn bè, đồng môn hoặc bề trên.

 Nói tóm lại, không chỉ có sự chủ động sửa lỗi mà còn có cả bị sửa lỗi nữa; không chỉ có bổn phận phải sửa lỗi nhau mà còn có cả bổn phận chấp nhận bị sửa lỗi nữa. Chính ở điểm này mà ta đánh giá được một người đã chín chắn đủ để sửa dạy người khác chưa. Ai muốn sửa dạy anh em thì chính mình phải luôn sẵn sàng để nhận được sửa dạy. Khi ta thấy một ai đó chấp nhận một lời phê bình với một lòng chân thành: “Anh nói đúng. Cảm ơn vì đã cho tôi biết điều này!”. Hãy ngả mũ xuống, bởi vì bạn đang đối diện với một con người chân chính.

 Khi sửa dạy anh em, hãy nhớ lời Chúa dạy: “Sao con thấy cái rác nơi mắt anh em mà lại không thấy cái xà trong mắt mình? Sao con có thể nói với anh em: ‘Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh’ khi chính con lại không thấy cái xà trong mắt mình” (Lc 6,41).

  Điều Chúa dạy ta về việc sửa lỗi cũng có thể áp dụng vào việc dạy dỗ con cái. Việc giáo dục là một trong những bổn phận căn bản của các bậc cha mẹ. “Người con nào mà lại không được cha mẹ dạy dỗ” (Dt 12,7); và còn nữa “Hãy uốn cây khi nó còn non, nếu bạn không muốn nó bị cong vẹo vĩnh viễn”. Từ chối sửa dạy con cái dưới mọi hình thức là một điều tệ hại nhất ta dành cho con cái và thật bất hạnh là ngày hôm nay nó rất phổ biến.  Hãy để ý cách đơn giản là việc sửa dạy tự nó không phải là kết tội và chỉ trích. Trong khi sửa dạy, bạn chỉ nên để ý đến sửa sai điểm sai phạm, không nên phổ quát hóa và khiển trách lung tung về cách sống cũng như bản thân con trẻ. Thực sự, việc sửa dạy chỉ nhằm đưa ra những điều tốt mà bạn nhìn thấy nơi  trẻ và bạn mong ước chúng sẽ trưởng thành hơn, như vậy việc sửa dạy trở nên một sự động viên hơn là hạ giá con cái. Đây cũng là phương pháp mà thánh Gioan Bosco đã sử dụng trong việc giáo dục thanh thiếu niên.

 Thật không dễ, trong từng trường hợp cá biệt, biết nên sửa dạy hoặc để cho sự việc trôi qua, nên nói hay nên giữ im lặng. Bởi vậy, phải ghi nhớ nguyên tắc vàng, áp dụng cho mọi trường hợp, được thánh Phaolô: “Anh em đừng mắc nợ nhau điều gì ngoài tình thương mến nhau… Tình thương không làm điều xấu cho một ai”(Rm 13,8). Thánh Augustine tổng hợp mọi vấn đề trong một câu cách ngôn “ Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”.

            Bạn phải xác tín trên hết rằng: từ trong quả tim mình có một tâm tình nền tảng là muốn ân cần với mọi người. Có được như vậy rồi, thì dù bạn làm gì, dù bạn sửa lỗi hay giữ im lặng, bạn cũng sẽ làm đúng, vì tình yêu “không làm hại gì cho ai".