Bài Tin Mừng của Thánh Gio an 10,
32-42 vẽ nên một cuộc tranh luận cốt lõi về cái chết của Chúa Giê su. Chúa hỏi
thẳng dân Do Thái: Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi
làm, vì việc nào mà các ông đòi ném đá tôi? Họ trả lời: Chúng tôi ném đá ông
không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng, ông là người
phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.
Chúa Giê su đã nhiều lần tuyên bố mình là Con Thiên Chúa, Chúa trưng ra bằng chứng là các việc Ngài làm minh chứng cho loài người biết nguồn gốc Thiên Chúa của mình: các phép lạ, quyền tha tội, cái chết và phục sinh. Ông Gioan đã làm chứng và nhiều người đã tin vào Đức Giê su “vì mọi lời ông Gio an nói về Người đều đúng”. Trong Tin Mừng có kể lại 2 lần tiếng Chúa Cha xác nhận từ trời cao: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”, một lần khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giodan và lần khác khi Chúa biến hình trên núi Tabor.
Đọc lại các trình thuật Tin Mừng kể về cuộc thương khó Chúa, chúng ta nhận
thấy hai điều: Chúa Giê su chủ động dâng hiến mạng sống để thi hành kế
hoạch cứu chuộc mà Cha đã định – Chúa khẳng khái tuyên bố trước tòa Phi la tô rằng: "Tôi là vua, nhưng nước Tôi không thuộc về thế gian này"; điều thứ hai là dân Do
Thái thù ghét Chúa Giê su đến cực độ, phải giết bằng giá nào – ghét hơn Ba ra
ba.
Chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giê su bị ghét đến như vậy? Có hai lý do: lý do thứ nhất là giáo lý của Chúa đi ngược với tham sân si của người đời và lý do thứ hai là Chúa Hằng Hữu. Niềm tin vào Chúa Giê su đòi buộc con người phải thay đổi lối sống để bước theo một con người – đặt dấu chân mình trên dấu chân Chúa Giê su, tuân giữ Lời Người dạy, mà Đấng ấy lại Hằng Hữu – nghĩa là còn đang sống bên cạnh ta và biết rõ mọi việc ta làm… nên cách tốt nhất là khai tử đạo Ki tô, vì dường như nó cản trở con người thỏa mãn dục vọng của mình - để vui hưởng cuộc đời. Có người nhận xét: Người ta không ghét Đức Phật, Đức Khổng hay Ông Mahômet. Một ít người bị ghét lúc sinh thời như Neron, Hốt Tất Liệt, hay Bismark. Nhưng ngày nay, còn có ai nghĩ đến ghét họ nữa! Chẳng còn ai đe dọa xúc phạm mộ Neron. Cũng chẳng còn ai sỉ mạ Bismark nữa. Họ chết là hết bị ghét. Cả Hoàng Đế nước Đức, sau thế chiến thứ hai, bị nhân dân và thế giới sỉ nhục, nay cũng không còn ai ghét nữa. Sự thù ghét đối với mọi người đã tiêu tan, mà sao đối với Chúa Giêsu vẫn tồn tại? Đâu là lý do? Đó là do giáo lý Chúa dạy ngăn cản thị dục người ta và Ngài Hằng Hữu.
Hằng Hữu (I Am Who I Am) mang rất nhiều ý nghĩa: tự mình mà có (Tự hữu), Là Alpha và Omega (không có khởi đầu và kết thúc), Thiên Chúa luôn hiện diện và hành động trong hiện tại . Còn các vĩ nhân và mỗi người chúng ta chỉ là hiện hữu, hiện hữu thì rất khác: được sinh ra trong thời gian.
Lịch sử Ki tô giáo đã chứng minh Lời tiên báo của Chúa
Giê su: “Nếu thế gian ghét các con thì hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước, và
vì các con không thuộc về thế gian”. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói: “Tôi
thà ngàn lần thấy một Giáo hội bị bách hại còn hơn một Giáo hội thỏa hiệp”. Xin
trích một đoạn ngắn bài viết của ĐHY FULTON
SHEEN: “Tôi hân hạnh thuộc về
một Giáo Hội người ta ghét. Đã hẳn, kẻ nhận biết bản tính thần linh của
Giáo Hội thì yêu Giáo Hội. Nhưng, kẻ tưởng Giáo Hội là lỗi thời, lạc hậu, dị
đoan, ma thuật thì ghét Giáo Hội. Kẻ chịu ơn thiêng liêng của Giáo Hội, thì mến Giáo hội
như người Mẹ vậy. Thế gian đối xử với Giáo Hội y hệt như đã đối xử với Đức
KiTô. Ngài cũng được yêu mến, nhưng cũng bị ghét bỏ. Không có ai được quí trọng
như Ngài, nhưng cũng không có ai bị khinh dể như Ngài”.
Ngày nay thế gian không thể đóng
đinh Chúa Ki tô thêm một lần nữa thì họ quay sang thù ghét Giáo hội là hiền thê
của Ngài. Có thể nói dù ở Đông hay ở Tây, thuộc thể chế chính trị nào, người ta
vẫn không ưa và tìm cách tẩy chay ảnh hưởng của Ki tô giáo trên xã hội, đó là một
sự thật mà Chúa chúng ta đã trải qua, và hãy hãnh diện vì được thuộc về Chúa Ki
tô. Thánh Phao lô đã thốt lên: “Tôi coi mọi sự là thua thiệt trước mối lợi tuyệt
vời là được biết Đức Ki tô, Chúa tôi”.