Danh sách Blog của Tôi

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2025

Về nhà

 



Sau một loạt tội lỗi đã phạm: đòi chia gia tài, bỏ nhà ra đi, phung phá tài sản, ăn chơi sa đọa, người con thứ vẫn không hề nghĩ đến tình cha khi trở về nhà, động cơ chính của anh là vì quá túng đói và cơ cực, đành bất đắc dĩ trở về. Trong một giờ học giáo lý, khi kể lại dụ ngôn ‘người cha nhân hậu’, từ đầu cho đến lúc người con thứ cất bước trở về nhà, người GLV mời các em ‘mô tả tưởng tượng’ phản ứng của người cha trong đời thường? – Một em phát biểu: ông ta cầm sẵn một cây roi mây đã cất sẵn và dằn cho thằng con hư hỏng một trận ra trò, đuổi cổ ra khỏi nhà, không có cha con gì hết.

Nói vậy để chúng ta thấy rằng: không ai dò thấu cõi lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ông tha thứ vô điều kiện cho nhân loại - là những đứa con đi hoang. Nhưng tự trong thâm tâm của người cha là một sự trả giá rất đắt: ban cho họ Người Con duy nhất của ông - hiến mình làm giá chuộc tội cho thiên hạ. Khi người Con yêu bị treo trên thập giá, đám đông dân chúng chờ xem ‘phạm nhân Giê su’ thốt ra những lời nguyền rủa độc địa – trách trời trách đất, và họ sửng sốt khi nghe 7 lời di ngôn rất dịu dàng, đẹp nhất là lời tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Cả người con thứ, cả người anh cả, và tất cả nhân loại đều bỡ ngỡ vì tấm lòng nhân hậu của người cha khi ông đón tiếp đứa con đi hoang trở về nhà, Người không mệt mỏi khi tha thứ. Thánh Kinh còn diễn tả: Tội các ngươi dù có đỏ như son, Ta cũng sẽ làm cho nên trắng như tuyết; có thắm tựa vải điều cũng trở nên trắng như bông.




Ai đã từng một lần đi xa nhà, đều nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn với một niềm da diết linh thiêng, và niềm vui vỡ bờ khi được trở về bên cạnh những người thân yêu, dù còn sống hay đã khuất. Đừng nghĩ rằng người con thứ hư hỏng ngay từ giây phút đầu, chắc chắn anh đã có những ước mơ và muốn thực hiện ước mơ đó, nhưng chẳng may thất bại và anh không mặt mũi nào mà nhìn lại người cha, anh ân hận – không thể tha thứ cho mình và rất tủi nhục khi bước chân về nhà. Ai trong chúng ta cũng đã từng phạm tội, đã đi hoang xa nhà và xa tình thương bao bọc của Thiên Chúa, hãy nhớ lời Chúa Giê su: “Các thiên thần trên trời vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn là vì 99 người công chính không cần hối cải”. Chúng ta thường không nhận ra tội mình, dễ nhầm tưởng rằng mình công chính, nên ngại đến với tòa giải tội để trở về với Cha mình và hiệp thông lại với Hội Thánh. Thật đáng mơ ước là cả các linh mục và giáo dân có chung nỗ lực là siêng năng lãnh nhận bí tích hòa giải hơn, vì có như vậy thì lương tâm ta mới nhạy bén hơn với tội, và điều này rất đẹp lòng Chúa.


 

Xin cho con tin vào tình thương Chúa để trở về với Chúa mỗi lần con xúc phạm đến Chúa và anh em. Và Có một điều con phải thầm nhắc lại mỗi ngày: Thiên Chúa là cha nhân từ, luôn mong chờ được con đón tiếp vào tâm hồn, để rồi Chúa sẽ dùng bữa tối với con và bao phủ con bằng muôn hồng ân chan chứa.

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2025

Niềm vui của người con cái Chúa

 



Bài Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Chay năm C là dụ ngôn người Cha nhân hậu (Lc 15, 1-3.11-32). Có lẽ đây là một dụ ngôn hay nhất của Tin Mừng, có thể dựng thành hoạt cảnh tôn giáo. Dụ ngôn này có nhiều tình tiết thú vị làm chúng ta phải sửng sốt về tình yêu của Thiên Chúa dành cho từng tâm hồn. Dụ ngôn này rất đúng cho thời Chúa Giê su và còn đúng cho con người mọi thời. Hãy đọc kỹ bản văn và đặt câu hỏi: Chúa Giê su muốn nói gì với tôi qua dụ ngôn này?

Chúa Giê su kể dụ ngôn này là để trả lời cho những người Pha ri sêu và các kinh sư khi họ lẩm bẩm: “ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đón tiếp là nói đến sự tôn trọng, ăn uống là nói đến sự gần gũi. Chúa Giê su đã nhiều lần tỏ rõ lập trường của Chúa: Ta đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn hối cải (sự thật là tất cả mọi người đều là kẻ tội lỗi), người đau yếu mới cần đến thầy thuốc.

Chúng ta đã ngạc nhiên khi nghe lời mời gọi của Chúa Giê su: “Các con hãy nhân từ như Cha các con trên trời là Đấng nhân từ, Người làm cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành người dữ và làm mưa cho người công chính và hạng bất lương”, đó là một sự thật xảy ra từ thuở tạo dựng cho đến hôm nay. Nhưng tình thương đó, khi được diễn tả qua một dụ ngôn với những tình tiết rất cụ thể, lại làm cho chúng ta ngây ngất về tình thương bao la của Cha trên trời. Xin Chúa biến đổi lòng con để mỗi ngày con trở nên giống Chúa hơn về sự nhân từ và tin tưởng hơn vào tình thương xót Chúa dành cho từng tâm hồn.

Tình tiết thứ nhất là Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Hai món quà quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người là tự do và thời gian, ở đây chúng ta chỉ nói về tự do. Một nhà tu đức đã nói: “khi ban cho con người tự do, Thiên Chúa dường như tự trói tay chân mình lại để hạn chế sự can thiệp của mình”. Bạn đã bao giờ cảm thấy buồn khi người con hay người em không nhờ mình giúp một tay vào công việc của nó chưa? – Dù bạn rất muốn giúp, biết rằng sự trợ giúp đó sẽ rất tốt cho vấn đề, nhưng nếu ‘người nhỏ’ không nhờ thì bạn không thể làm gì được, vì tôn trọng tự do của họ. Thiên Chúa cũng buồn lòng như vậy khi con người không cho Chúa can thiệp vào đời mình, khi họ chẳng màng đến cơn khát tình của Chúa. Cánh cửa của họa sĩ Hunt vẽ thiếu tay cầm, vì cánh cửa tâm hồn phải được mở từ bên trong. Người con thứ đòi chia gia tài, rời nhà ra đi, người cha không thể ngăn cản, dù buồn và lo trong lòng. Buồn vì con bất hiếu, buồn vì con không hiểu hết tình thương của mình – không hạnh phúc khi ở lại trong nhà, buồn vì con sẽ khổ và vấp ngã.




 Khi người con thứ trở về, dù còn ở rất xa, người cha đã trông thấy, ông chạy ra đón, ôm hôn. Từng ấy chi tiết đã diễn tả sự mòn mỏi mong chờ và chủ động tha thứ - đón con trở về, dù con chưa mở miệng xin lỗi – dù con không xứng đáng. Có một người mẹ, khi nghe tin con mình bị kết án tử, đã tìm đến với nhà vua để xin sự khoan hồng tha thứ; nhà vua trả lời: con bà không đáng được khoan hồng; bà mẹ mới đáp lại: tôi không xin sự công bằng, vì con tôi không xứng đáng, nhưng tôi xin sự thương xót. Câu hội thoại của người con thứ thiếu một câu mà nhiều khi ta không để ý, người cha dường như đã bịt miệng cậu lại để không phải nghe câu đó: “Xin cha xử với con như một người làm công”. Thiên Chúa không muốn một ai trong chúng ta trở thành kẻ làm công, mà là những người con. ‘Làm con cái Thiên Chúa’ làm nên bản chất của người Ki tô hữu, phẩm vị này là một sự tôn vinh cho Thiên Chúa Tình Yêu (Ngài yêu hết mọi người), là căn bản để nhìn nhận mọi người là anh em và bình đẳng với nhau trước mặt Thiên Chúa. Đặc ân được làm con cái Chúa tạo nên niềm vui cho người Kitô hữu, dù tôi tội lỗi - tầm thường - nhỏ bé…thì tôi vẫn hạnh phúc vì được làm con cái Thiên Chúa. Hãy để ý đến vài chi tiết khác: chiếc áo đẹp nhất, nhẫn, dép… đó là những chi tiết phục hồi quyền làm con; con bê béo: các gia nhân đều biết rõ con bê được vỗ béo để dành riêng cho bưã tiệc … Tất cả chi tiết này nói lên sự chuẩn bị từ trước, sự mong chờ, và bây giờ là niềm hạnh phúc vỡ bờ khi người con trở về.

Người anh cả nổi giận và không chịu vào nhà. Vì sao thế? - Anh ta không muốn nhìn nhận lại người em, anh ta ghen tị vì sự đón tiếp linh đình của người cha. Thằng em hư hỏng tội lỗi lại làm thịt con bê béo (con bò con) trong lúc nghiêm túc như mình mà một con dê nhỏ cũng chẳng có, thật bất công, và tước vị ‘người làm công’ lại được người anh cả thốt ra, thật đáng buồn. Người cha nói với anh ta: con à, con hằng ở với cha – mọi sự của cha đều là của con (tình thương) nhưng phải vui mừng vì em con trở về. Thánh Luca kết thúc ở đó, không biết người anh có vào nhà hay vẫn cứng lòng mãi cho đến hôm nay? Chúa Giê su đã nói đến nghịch lý này: Ông Gioan đến không ăn không uống thì các ông bảo ông ta bị quỷ ám, Con Người đến có ăn có uống thì các ngươi lại bảo hạng ham mê ăn uống… để rồi các ông vẫn không chiu ăn năn hối cải. Khi bị treo trên thập giá, họ vẫn cứng đầu và khích bác Chúa: nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.



Ngay trong tâm hồn chúng ta vẫn tồn tại hình ảnh của cả hai người con. Chúng ta vẫn thường lạm dụng tự do để làm điều dữ, chiều theo dục vọng - xúc phạm đến lề luật Chúa dạy, chúng ta lần lữa trở về khi chưa cùng đường. Và có lẽ chúng ta giống với người con cả hơn, vì mình không xa Giáo hội, không phạm những tội tày trời, không bất lương, nhưng lại mang tâm trạng coi Chúa là ông chủ còn mình là kẻ làm công, chúng ta thường để ý đến quà tặng hơn là Đấng Tặng Quà. Hãy trở về sống trong tình nghĩa cha con và anh em với nhau. Hãy tạ ơn Chúa mỗi ngày vì Con Thiên Chúa đã chết vì yêu tôi. Hãy rộng lượng với anh em, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi rất nhiều tội – rất nhiều lần, còn tha mãi cho đến ngày tôi lìa cõi thế.

 

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

Ăn năn sám hối

 



Mùa chay là mùa của ăn năn sám hối, vì thế các bài đọc trong phụng vụ trong suốt mùa này không ngừng nêu lên các khía cạnh của sự trở về với ân tình Thiên Chúa. Có thể nói ‘ăn năn sám hối’ cũng là một sứ điệp lớn của Ki tô giáo, giống như những sứ điệp khác như đau khổ, tình yêu, thập giá và phục sinh. Trong 20 mầu nhiệm của kinh mân côi có 3 mầu nhiệm nhắc đến việc ăn năn sám hối: Thứ 1 mùa Thương (Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên), Thứ 3 năm sự Sáng (Ta hãy xin cho được ơn cải sửa tâm hồn), thứ 1 năm sự mừng (Ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn).

Và 3 bài đọc Chúa nhật 3 Mùa Chay năm C cùng nói về chủ đề ăn năn sám hối. Bài đọc 1: ông Moi sen được Chúa kêu gọi trở thành người lãnh đạo đưa dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập tiến về vùng đất hứa, trải qua cuộc hành trình sa mạc để thanh luyện – hướng đến việc ký kết giao ước Sinai. Bài đọc 2: Dân Do Thái không sống đẹp lòng Chúa trong cuộc hành trình Sa mạc, họ lẩm bẩm kêu trách Chúa và chiều theo những dục vọng của họ - kết quả là đa số những người già trong họ không được tiến vào đất hứa. Bài học của họ đáng cho chúng ta suy gẫm: “ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã”. Bài Tin Mừng (Lc 13, 1-9) nói với chúng ta rằng: đừng tưởng rằng mình tốt hơn những người bị giết bởi quan Philatô và bị tháp Siloe đổ xuống. Chúa nhấn mạnh đến 2 lần: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi cũng bị chết hết y như vậy”. Chúa không nói đến cái chết thể lý, nhưng đúng hơn là cái chết đời đời, như chiếc lưới sẽ ập xuống khi đến thời của nó. Điều Chúa muốn nói ở đây là sự bất ngờ của những biến cố và của những cái chết, dù hiểu theo nghĩa nào.

 Dụ ngôn cây vả nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, đã 3 năm Ngài tìm trái nơi cây vả mà không thấy trái, tuy vậy Ngài vẫn tiếp tục chờ đợi thêm nữa, vẫn còn hy vọng - với sự can thiệp của người làm vườn Giê su. Dụ ngôn muốn nói với ta rằng: Chúa vẫn mong mỏi từng ngày đời ta sinh hoa trái mến Chúa yêu người, những hoa trái nhân đức - hơn là sống cằn cỗi mà không sinh ích cho ai. Tâm lý thường tình ta hay nghĩ rằng: còn lâu ta mới chết hoặc ta sẽ được khoan hồng như người trộm lành trên thập giá. Bạn đã bao giờ trải qua tình trạng hôn mê chưa, lúc thập tử nhất sinh đó, ta chỉ lo những chuyện ‘gì đó’ mà chẳng bận tâm đến phần rỗi mình. Vậy, đừng chủ quan với đời sống linh hồn, vì sống sao chết vậy: nếu sống thánh ta chết thánh, nếu sống trong tội ta ra đi trong tội, nhiều khi không có một giây ân huệ để dọn mình chết lành. Sách tu đức dạy rằng: Hãy lo liệu để luôn sống trong tình trạng sạch tội trọng, xưng tội trọng càng sớm càng tốt.

Ăn năn sám hối là nhu cầu thiết yếu của linh hồn: sống tốt giây phút hiện tại, trân quý những gì mình đang có, nỗ lực vươn lên từng giây phút sống. Chúa chỉ cần có thế. Đừng quá đánh giá cuộc đời dựa trên thành công và mong ước làm những chuyện lớn lao, vì chuyện lớn lao chỉ dành cho một số người, còn đa số chúng ta chọn con đường nên thánh trong việc chu toàn bổn phận hằng ngày. Các tu sĩ dù thuộc dòng kín hay dòng hoạt động, đều có chung một ơn gọi là “nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo, đều có một đường hướng nên thánh là ‘Ora et labora’ – cầu nguyện và hoạt động. Và có thể nói thêm: các linh mục và người giáo dân cùng có chung một ơn gọi là: nên hoàn hảo như Cha trên trời. Chu toàn việc bổn phận hằng ngày là cách chắc chắn nhất tiến bước trên con đường nên thánh.




Cuộc sống của mỗi người trên trần gian có thể ví như một cuộc hành trình sa mạc tiến về quê trời. Nói đến sa mạc là nói đến thử thách và thanh luyện, để niềm tin - đức cậy và lòng mến được tinh ròng. Đã là thử thách thì có kẻ thắng vượt được và có kẻ vấp ngã - dẫn đến không sống đẹp lòng Chúa. Hãy cộng tác với ơn Chúa, hãy nguyện xin sự trợ giúp của Chúa Giê su – Ngài không ngại vất vả để chăm sóc cho tâm hồn ta trổ sinh những hoa quả tốt đẹp, vì chính Chúa đã yêu ta đến hy sinh chính mạng sống mình. Đừng mất hy vọng vào chính bản thân mình và vào tha nhân, vì ơn thánh Chúa không ngừng tác động, để đêm hay ngày hạt cải cứ âm thầm mọc lên, với điều kiện là bản thân mỗi người cũng hãy nỗ lực thay đổi cuộc sống - ăn năn sám hối để nên tốt hơn mỗi ngày.

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

Lòng nhân từ

 



Tin Mừng Thánh Luca kết thúc loạt bài dài những lời dạy của Chúa với các Ki tô hữu: họ phải công chính hơn các biệt phái và luật sỹ, đừng khoe khoang khi cầu nguyện - ăn chay- bố thí, đừng xét đoán và kết án anh em, hãy yêu kẻ thù và tha thứ - cầu nguyện cho kẻ làm hại mình. Và hôm nay (6, 36-38) như một kết luận: “các con hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Nhân từ được định nghĩa là có lòng thương người và hiền lành.

Không bao giờ con người hiểu thấu lòng nhân từ của Thiên Chúa, vì cõi lòng hẹp hòi của phận người. Tin Mừng đưa ra cho ta một lý lẽ rất đáng thuyết phục: “Người làm mưa và cho mặt trời chiếu sáng trên kẻ lành người dữ”. Chỉ từng đó thôi, chúng ta đã không hiểu thấu và thực hành được, vì cái hữu hạn của con người. Thử nghĩ xem: nếu ta có quyền trên vạn vật, có quyền ban phát ân lộc cho muôn loài thì biết bao xáo trộn và thiên vị xảy ra ngay, cứ xem các đế chế và quốc gia mạnh luôn cạnh tranh để bá chủ thiên hạ, họ luôn gây khổ cho những nước yếu bằng sự bóc lột, nô lệ. Bạn thử nghĩ xem: ân lộc Chúa ban cho ta luôn dồi dào phong phú đến nỗi ta không nghĩ là ơn – mà chỉ là một sự tự nhiên như:  không khí ta thở, mặt trời cứ chiếu sáng, bao nhiêu quặng mỏ trong lòng đất cho con người hưởng dùng. Đó là sự rộng lượng của Đấng Toàn năng, con người luôn phải cúi đầu cảm tạ.

Sự hiện diện và bao bọc của Chúa với cuộc sống từng người và cả thế giới cũng bao trùm ta như không khí vậy, nhưng mấy khi ta cảm nghiệm được? Hơn bất cứ cha mẹ trần gian nào, Thiên Chúa dẫn bước tâm linh của mỗi người: ngay cả một ý hướng ngay lành, một sự soi sáng khi ta đọc một đoạn Kinh Thánh, ơn nâng đỡ khi ta tụ họp với cộng đoàn, ngay cả một câu chuyện và sự gặp gỡ một ai đó… cũng nằm trong sự an bài lạ lùng của Người. Trong tác phẩm ‘Tôi dám gọi Người là cha’ có diễn tả cảm nghiệm thiêng liêng của một người Hồi giáo trở lại Ki tô giáo (Tin Lành) rất sống động. Chị ta được dạy rằng: nếu cần một sự soi sáng hãy thưa chuyện với Chúa như Cha mình, chị rất xúc động và cảm nghiệm được tình thương và bao phủ của Chúa, đã rửa tội, chấp nhận sự tẩy chay của dòng tộc – của cả làng – sự đe dọa bị giết.. Đôi khi, chúng ta quên mất sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống mình, Chúa bị nhốt trong nhà thờ như một người tù, còn mọi lo toan cuộc sống - những đau khổ, bệnh tật- những lời nói và việc ta làm chẳng liên quan gì đến Chúa cả, nếu như vậy ta hơi giống người vô thần rồi đó.



Trong cuộc biến hình trên núi, lời Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người”. Có một điều quan trọng mà nhiều người giáo dân chưa làm được, là đọc Lời Chúa hằng ngày. Có nhiều cách đọc: có thể mình đọc theo thứ tự phần Cựu Ước hay Tân Ước, có thể mình đọc những trang mạng có bài suy niệm Tin Mừng hằng ngày, và tôi nghĩ cách hay nhất là mình đọc kỹ các bài của ngày lễ hằng ngày – đọc kỹ - ghi nhớ và thuộc lòng một vài câu quan trọng – từ từ mình sẽ có một số vốn cần thiết – và những câu Kinh Thánh này sẽ chợt đến với ta trong những tình huống cuộc sống… đó là hoạt động của Chúa Thánh Thần.

Hãy chiêm ngắm gương nhân từ của Chúa Cha, gương hy sinh của Chúa Con và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần để có thể tiến lên từng bước trên con đường yêu thương tha nhân. Đừng ghét bỏ ai cả, tốt hơn là cầu nguyện cho những người chưa tốt như ta nghĩ.  Đừng nghĩ rằng mình bị oan ức và bị mọi người xử ép để rồi tẩy chay họ khỏi cuộc sống, tốt hơn hãy thay đổi lòng mình – thay đổi cách suy nghĩ của mình để có thể sống nhân từ hơn với anh em.

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2025

Quê trời

 

 



Ba bài đọc Chúa Nhật thứ 2 Mùa Chay nói đến một niềm hy vọng về một vùng đất mới và một thực tại đáng mong chờ, đó là quê trời.

Ông Abraham được Chúa kêu mời rời bỏ vùng đất cũ đến định cư ở vùng Ca na an. Ông tin vào Lời Chúa hứa và đã lên đường theo tiếng gọi – dù chưa biết tương lai sẽ đi về đâu, vì thế ông được kể là người công chính. Về sau, ông còn được Chúa hứa về một dòng dõi đông đúc như sao trên trời – như cát dưới biển, vậy mà mãi đến già gần 100 tuổi mới có được một mụn con, Chúa lại còn yêu cầu ông sát tế người con ấy. Abraham không do dự khi đưa tay giết chết con mình, nhưng rồi Thiên sứ Chúa đã can ngăn giữ tay ông lại. Ông Abraham được kể là cha của kẻ tin là vậy. Vài chi tiết của bài đọc sách Sáng Thế làm chúng ta liên tưởng đến cuộc biến hình của Chúa Giê su: vẻ sáng chói của thân xác Chúa là phản chiếu của đức tin ngời sáng của Con Thiên Chúa khi sắp trải qua cuộc xuất hành, hầu dẫn đưa một đoàn em đông đúc từ cõi chết về cõi sống; Chúa Cha xác nhận địa vị và công trình cứu độ Chúa Con sắp thực hiện, giống như sự xác nhận của Chúa trên các con vật được ông A bra ham sát tế. Chỉ có điều là khi Con Thiên Chúa hiến mình trên thập giá, không hề có một sự can ngăn của một vị thiên sứ, như trường hợp hiến tế của I sa ac.

Niềm tin vào quê trời mai sau, vào việc có linh hồn bất tử đã dẫn đến 2 thái độ sống khác nhau. Thánh Phao lô nói tới thái độ đáng buồn của một số người sống thù nghịch với thập giá Chúa Ki tô, họ chỉ ham mê những của đời này, chúa tể của họ là cái bụng. Thánh nhân khuyến khích chúng ta hãy bắt chước ngài và những người sống giống như ngài: sống kết hợp với Đức Ki tô, biến đổi nên giống Chúa Ki tô, trong niềm mong chờ quê hương trên trời. Bạn có để ý không, trong bản kinh năm thánh, tuy ngắn gọn mà đã có 3 lần nhắc tới quê trời: “Xin cho ơn đức tin và ngọn lửa đức ái khơi dậy trong chúng con niềm hy vọng hồng phúc hướng về Nước Cha trị đến/ Xin cho những hạt giống Tin Mừng biến đổi từ bên trong nhân loại, trong khi vững lòng mong đợi trời mới đất mới/ Xin cho ân sủng của năm thánh khơi dậy trong chúng con niềm khao khát kho tàng ở trên trời.” Chúng ta là những người lữ hành của hy vọng: với ơn Chúa, chúng ta nỗ lực xây dựng quê hương trần thế, chúng ta nỗ lực trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki tô, nhưng niềm hy vọng ở trần gian chỉ là tương đối. Niềm hy vọng chỉ trọn vẹn khi mỗi người tiến vào nước trời, được chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện. Thánh Phaolô nói với chúng ta: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban tặng trên quê trời. 



Chúa Giê su đem theo 3 môn đệ lên núi, Chúa cầu nguyện và trong lúc cầu nguyện thì dung mạo Chúa biến đổi khác. Có vài câu hỏi liên quan đến cuộc biến hình: mục đích của việc biến hình là gì? , có phải Chúa tự làm phép lạ cho mình được sáng chói? , tại sao lại có ông Moisen và Ê lia? -  Nhiều người cho rằng Chúa biến hình là để củng cố niềm tin các môn đệ vì Chúa sắp trải qua cuộc khổ nạn trên thập giá. Khi cầu nguyện, Chúa kết hiệp trọn vẹn với ý định cứu độ - trong tình yêu dâng hiến để cứu chuộc nhân loại, chính sự sáng chói của niềm tin và lòng mến rực cháy trong lòng đã biến đổi dung mạo Chúa, tựa như dung mạo sáng chói của ông Moi sen sau mỗi lần đàm đạo với Chúa. Ông Moi sen và ông Elia là hai nhân vật lớn của Cựu Ước: Ông Moi sen là người dẫn dân riêng Chúa xuất hành khỏi Ai cập để tiến về đất hứa, là người ký kết giao ước Si nai; còn ông Ê lia là tiên tri lớn của Chúa, ông đến để chỉnh đốn mọi sự và ông về trời trên một cỗ xe bằng lửa. Chúa Giê su trổi vượt hơn hai vị của Cựu Ước: Chúa là Con Thiên Chúa làm người để đưa con cái trở về với Thiên Chúa, Chúa Giê Su đã dâng chính mình làm của lễ cứu chuộc, ký kết giao ước mới bằng máu châu báu của mình, nhờ đó con đường về trời đã rộng mở cho mọi người thuộc mọi dân tộc trên trần gian này.

Chúa biến hình mời gọi mỗi người chúng ta hãy vâng nghe Lời Con Chúa dạy, đừng sống thù nghịch với thập giá khi mê say những của cải trần gian mà quên lãng quê trời. Chúng ta là những người lữ hành hy vọng, chân bước đi trên mặt đất nhưng lòng hướng về quê trời. Chỉ khi gặp gỡ và tiếp xúc với Chúa, ái mộ những sự trên trời, dung mạo và nếp sống chúng ta mới rực sáng niềm vui và hạnh phúc là phản ảnh của hạnh phúc thiên đàng. Ước mong rằng: niềm hy vọng quê trời sẽ chiếm đoạt lòng ta khi trải qua những gian khổ trần gian, và khi giờ chết đến, niềm mong mỏi quê trời sẽ chiến thắng nỗi đau và những nỗi sợ khác. Amen.

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2025

Cám dỗ

 



Nhiều người cho rằng: thời đại văn minh như hôm nay mà còn nói đến chuyện ma quỷ ư? – Đúng vậy, dựa vào Kinh Thánh, chúng ta biết có ma quỷ. Đó là các thiên thần được Chúa tạo dựng nhưng đã nổi loạn không vâng phục Chúa. Dựa vào thực tế cuộc sống, mỗi người chúng ta cũng có một nỗi sợ ma quỷ, vì nhiều lần mình cũng đã từng bị cám dỗ và sa ngã, và hằng ngày vẫn bị cám dỗ nghiêng chiều về đàng xấu xa.

Ba cơn cám dỗ mà Tin Mừng Luca đưa ra hôm nay (4, 1-13) là những cơn cám dỗ điển hình của con người mọi thời. Cơn cám dỗ thứ nhất là thỏa mãn những nhu cầu thuộc bản năng con người như: ăn uống, thỏa mãn xác thịt, được yêu mến, được an toàn; cơn cám dỗ thứ hai là về lợi lộc vật chất và sở hữu, vì chúng đảm bảo cho cuộc sống được an toàn và giúp đáp ứng những nhu cầu trên; và cám dỗ thứ 3: thể hiện quyền lực, đi trệch con đường Chúa Cha đã vạch ra. Câu kết của Tin Mừng làm chúng ta phải dừng lại và suy nghĩ: ma quỷ rút lui, chờ dịp thuận tiện.

Các nhà tu đức nói với chúng ta rằng, ma quỷ rất tinh quái, chúng đủ kiên nhẫn và đủ mưu lược để cám dỗ được nhiều người, mỗi người mỗi chiêu thức và mỗi thời điểm lại có cơn cám dỗ khác nhau. Đối với người non yếu trong đường tu đức thì chúng chỉ cần dùng bài vở cũ như lòng tham và nhục dục, nóng nảy, kiêu ngạo là đủ. Đối với người tiến bộ trên đường nhân đức thì cơn cám dỗ xuất hiện dưới nhiều hình thức tinh vi hơn. Khi người ta nghèo đói thì ma quỷ đưa ra cơn cám dỗ tham lam, ghen tị, oán trách Chúa để mất lòng tin vào Người. Khi người ta giàu có thì ma quỷ lại cám dỗ tính khoe khoang, khinh thường người khác, ích kỷ, cậy của để mất lòng tin vào Chúa. Khi người ta khỏe mạnh và thành công thì ma quỷ dụ họ ăn chơi đua đòi, khi ngã bệnh thì ma quỷ lại cám dỗ người ta thất vọng, tìm cách giải thoát mình như cách trừng phạt Chúa và những người thân. Chuyện kể rằng: ma quỷ nhóm họp đại hội bàn về việc cám dỗ một vị tu sĩ cao niên và rất đạo đức, những cơn cám dỗ về tình dục và của cải đều vô ích, nên cuối cùng tên tướng quỷ mới ra tay, nó tiến đến vị tu sỹ đang cầu nguyện, nó rỉ tai nói một câu thôi, và vị tu sỹ sa sầm nét mặt – lòng hoang mang. Câu nói đó là: “ngài xem, bạn bè của ngài đã là giám mục và tu viện trưởng cả rồi”. Vị tu sĩ bị trúng kế về sự thành công và danh tiếng.

Khi nói về những cám dỗ về tình dục, một nhóm bạn 'ta – ru' nói đùa với một linh mục bạn mình rằng: có lẽ các linh mục bị cám dỗ nặng nề về sắc dục? – vị linh mục hóm hỉnh trả lời: khi một người thường xuyên dùng thịt thì lại bị cám dỗ muốn biết về nhiều thứ thịt khác nhau, còn người thường xuyên dùng cá thì lại ít bị cám dỗ trên. Sách tu đức dạy rằng: mỗi người, dù thuộc khuynh hướng tình dục nào (mạnh, yếu, khỏe mạnh hay bệnh tật, đồng tính hay dị tính) đều phải chiến đấu với bản thân để từ bỏ mình mà bước theo Đức Kitô. Trong truyện kể về Thánh Phanxico Assidi, dù đã bỏ hết gia đình, tài sản, sống kham khổ ăn chay hãm mình, nhưng có lần thánh nhân vẫn bị cám dỗ về tình dục, ngài đã phải lăn lộn trên tuyết để cho cái lạnh thấu xương đó giúp cơn cám dỗ tan đi. Còn Thánh Pio 5 dấu, dù đã tiến xa trên đường nhân đức, được Chúa in năm dấu thánh từ lâu, nhưng thánh nhân vẫn thường xuyên bị ma quỷ cám dỗ: lúc thì bị chúng tấn công bằng những nắm đấm, lúc thì chúng giả danh cha bề trên để truyền cho thánh nhân phải giảm bớt việc ăn chay hãm mình, có lúc chúng lại hiện hình thành một cô gái xinh đẹp lả lơi vuốt ve thân xác ngài… và dĩ nhiên, cha thánh đã phải kêu cầu sự trợ giúp của Chúa để xua đuổi những cơn cám dỗ.

Đức Phanxicô dạy: Đừng quá sợ hãi ma quỷ, vì nó như con chó bị cột xích, đừng tiến gần và đừng nói chuyện với nó thì nó không làm hại được mình. Điều đó muốn nói rằng: Chúng ta phải tránh dịp tội, ví dụ như những bạn bè xấu, những cuộc tụ họp không lành mạnh, những vị trí đặt máy tính, những thói quen xấu, những chất kích thích. Ai trong chúng ta cũng từng nghiệm được rằng: mình chẳng mạnh mẽ gì, trên hết mọi sự phải biết kêu cầu sự trợ giúp của Chúa. Chúa dạy ta: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.




Chúa Giê su đã dùng Lời Chúa để đáp trả ma quỷ, và dĩ nhiên nhân đức của Chúa đã khiến ma quỷ không thể làm Người xiêu lòng được. Chúng ta hãy siêng năng học hỏi và suy gẫm Lời Chúa để Lời Chúa soi bước ta đi và sinh hoa kết trái trong lòng ta. Ma quỷ vẫn tiếp tục mỗi ngày cám dỗ ta về của cải, danh vọng, sắc dục, thành công và bỏ cuộc trong những việc phục vụ - chán việc tiến bước trên đường lành. Mỗi ngày, bạn và tôi hãy cậy dựa vào ơn Chúa để chống lại cơn cám dỗ sống tầm thường - ai sao tôi vậy, để làm được điều gì đó cho Chúa và Giáo hội. Và đặc biệt trong thời đại chúng ta, nổi bật là những cơn cám dỗ về sự thành công như thước đo giá trị của một người; ích kỷ khép kín lòng mình – thỏa nhu cầu mình mà không cần tiếp xúc với tha nhân; thiếu kiên nhẫn – muốn mọi sự phải có liền; thiếu sự chịu đựng và xót thương với tha nhân quanh mình; thiếu đời sống nội tâm kết hợp với Chúa Giê su – cho mình là tự đủ, tự khoe và tự sướng. Lời Chúa dạy: Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, xin xót thương chúng con, lạy Chúa.

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2025

NỀN TẢNG VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA CUỘC LỮ HÀNH HY VỌNG

 


 Với chủ đề của năm Thánh 2025 :"Những người hành hương của hy vọng". Xin trích một bài viết ngắn  của tác giả Phaolô Phạm Xuân Khôi  diễn tả khá đầy đủ ý nghĩa của năm Thánh này.

 





Trong cuộc hành trình đức tin, các Kitô hữu được mời gọi sống như những lữ khách trên con đường hướng về Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều người trong thế giới ngày nay đã đặt hy vọng của mình vào những điều tạm bợ: của cải vật chất, quyền lực, danh vọng, hay những giải pháp nhân tạo để đạt được hạnh phúc. Những loại "hy vọng sai lầm" này thường dẫn đến thất vọng, vì chúng không thể đáp ứng được khát vọng sâu xa nhất của tâm hồn con người.

Hy vọng đích thực không bắt nguồn từ những điều chóng qua, mà từ lời hứa vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chủ đề "Những Người Lữ Hành Hy Vọng" trong Năm Thánh 2025 nhấn mạnh đến vai trò của niềm hy vọng đặt nơi Đức Kitô, giúp chúng ta vượt qua những thử thách và tìm được nguồn vui thật sự trong hành trình tiến về sự sống đời đời..

 

Hy Vọng Bắt Đầu từ Ý Thức về Ơn Cứu Độ

Hy vọng đích thực bắt nguồn từ việc ý thức rằng con người không thể tự cứu mình mà cần đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Tội Nguyên Tổ đã để lại một vết thương sâu xa trong bản tính con người, khiến chúng ta dễ sa ngã và đối diện với sự yếu đuối. Hội Thánh dạy rằng, việc nhận thức rõ ràng tình trạng tội lỗi và sự cần thiết của ơn thánh là bước đầu để xây dựng niềm hy vọng. Dẫu thế giới hiện đại thường cắt nghĩa tội lỗi qua các yếu tố tâm lý hoặc xã hội, nhưng Hội Thánh khẳng định rằng chỉ khi con người tìm đến Thiên Chúa, chúng ta mới có thể vượt qua sự yếu đuối nội tại và tiến bước trong niềm hy vọng.



 Ơn Cứu Chuộc qua Đức Kitô

Trước tình trạng của con người, Thiên Chúa đã đáp lại bằng cách ban chính Con Một Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Qua cuộc Thương Khó, Cái Chết, và Phục Sinh của Người, Đức Kitô đã mở ra con đường cứu rỗi cho nhân loại. Người không loại bỏ đau khổ mà biến đổi nó, dạy chúng ta cách nhìn thấy ý nghĩa trong những thử thách và kết hợp đau khổ của mình với cuộc Khổ Nạn của Người. Bí tích Thánh Thể, như Hội Thánh dạy, là tột đỉnh của việc cứu chuộc, trong đó chúng ta được nuôi dưỡng để sống trong niềm hy vọng. Bí tích này không chỉ ban ân sủng mà còn là lời mời gọi chúng ta kết hợp với Đức Kitô trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

Thánh Thể là Lương Thực Nuôi Dưỡng Lữ Khách

Bí tích Thánh Thể đóng vai trò trung tâm trong hành trình hành trình hy vọng. Trong Bí tích này, Đức Kitô thật sự hiện diện, ban chính Mình và Máu Người để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Khi rước Mình Máu Thánh Chúa trong các Thánh Lễ, chúng ta không chỉ tham dự vào Hy lễ của Chúa mà còn được kết hợp mật thiết với Người, nhận được sức mạnh để đối diện với những khó khăn trong cuộc sống. Không những thế, Người còn hiện diện liên tục trong các Nhà Tạm để đồng hành với chúng ta. Chúng ta có thể đến tâm sự với Người, than van với Người, hội ý Người, và thậm chí nghỉ ngơi bên Người để được Người bồi dưỡng. Trong một thế giới đầy chia rẽ và tuyệt vọng, Thánh Thể là nguồn hy vọng và hiệp nhất, giúp chúng ta sống yêu thương và làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại. Nhờ thế chúng ta có thể đem niềm hy vọng này đến cho thế gian qua cách sống của chúng ta trong những tương tác thường nhật.

Hy Vọng Hướng về Sự Sống Vĩnh Cửu

Hy vọng Kitô giáo vượt qua mọi giới hạn của thế gian để hướng đến sự sống đời đời bên Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể là nếm trước bữa tiệc thiên quốc, ở đó Thiên Chúa sẽ xóa đi mọi đau khổ và trao ban cho chúng ta niềm vui trọn vẹn. Trong khi nhiều người thời đại tìm kiếm hạnh phúc nơi của cải hoặc quyền lực, Hội Thánh mời gọi chúng ta làm chứng cho niềm hy vọng đích thực nơi Đức Kitô. Hy vọng này đòi hỏi mỗi người hoán cải và sống đức tin qua cầu nguyện, bác ái, và đời sống hy sinh. Sứ vụ của chúng ta là mang ánh sáng của Tin Mừng đến với mọi người, để họ cũng nhận ra niềm vui và ý nghĩa của cuộc đời.

 Kết luận

Chủ đề "Những Người Lữ Hành Hy Vọng" trong Năm Thánh 2025 là lời mời gọi sống đức tin cách sâu sắc và vững vàng. Hành trình đức tin không tránh khỏi những khó khăn và thử thách, nhưng với niềm hy vọng đặt nơi Đức Kitô, chúng ta được mời gọi bước đi trong tin tưởng và bình an. Thánh Thể chính là nguồn sức mạnh và niềm an ủi trên cuộc hành trình này, giúp chúng ta hướng đến sự sống đời đời. Hãy cùng nhau sống tinh thần lữ hành hy vọng, trở thành ánh sáng thế gian, và dẫn đưa những người khác đến gần Thiên Chúa hơn.


Sinh trái tốt

 



Sách Huấn Ca (27, 1-7) đưa ra một hình ảnh rất gợi cảm: “Khi người ta sàng, những rác rến còn lại thế nào, thì nết xấu của một người cũng xuất hiện trong lời nói kẻ ấy như vậy. Đừng ca tụng người nào trước khi nghe người ấy nói, vì lời nói là sự thử thách của con người. Cứ xem quả thì biết cây”. Chúa Giê su cũng nhấn mạnh: Cứ xem quả thì biết cây, cứ nhìn hành động của một người thì biết tâm hồn và con người thật của người đó.

Ngày xưa hình ảnh của một người mẹ sống ở nông thôn gắn liền với thúng, mẹt, sàng, nia, gióng, và đòn gánh… và sàng sảy là một nghệ thuật của sự kiên nhẫn, khéo léo của đôi bàn tay, đong đầy tình thương của sự tảo tần lo vun quén cho gia đình. Ngày nay, những vất vả làm lụng đó được thay thế bằng các máy móc vừa hiệu quả kinh tế lại vừa nhanh gọn, nhưng ít là hình ảnh sàng sảy còn lưu lại trong tâm trí nhiều người và nơi chữ viết. Khi người ta sàng, vật nặng sẽ lắng đọng xuống dưới và những rác rến nhẹ hơn sẽ nổi lên trên – rất dễ để bị loại bỏ; cũng thế lời nói của con người sẽ bộc lộ tâm hồn của một người: khiêm nhường hay kiêu ngạo, ích kỷ hoặc quảng đại, thô tục, tế nhị, thiên về tinh thần hoặc vật chất…

Sách Huấn Ca không hẳn là chỉ cho chúng ta một bài học làm người là phải cẩn ngôn và giữ gìn miệng lưỡi, mà đúng hơn dạy ta biết xem xét lời nói của chính mình như cách thế để nhận biết tâm hồn mình, để trở về với nội tâm. Biết mình là một điều khó. Thứ nhất là ai trong chúng ta cũng mắc bệnh chủ quan: cái xà trong mắt mình thì không thấy mà lại thấy cái rác nhỏ xíu trong mắt anh em. Thứ hai, người khác lại thường tung hỏa mù bằng những lời nịnh hót làm ta khó nhận ra sự nghèo nàn đáng thương của đời mình. Thứ ba là chúng ta thường lẩn tránh trở về căn nhà nội tâm bằng những bận rộn trong công việc và những hoạt động, những bữa tiệc và giải trí, du lịch và tán gẫu…

Sau một cuộc gặp gỡ với bạn bè và từ nơi công cộng trở về, hãy nghĩ lại xem những chuyện mình và các bạn đã nói… ta sẽ rút ra được nhiều hiểu biết, nhận ra sức khỏe tinh thần của nhau và nhận ra những điều không nên nói – vì nó vô ích, trống rỗng và không phù hợp với người Ki tô hữu. Sau một ngày sống, hãy xét mình về lời nói: chính lời nói sẽ tác động đến bầu khí gia đình và tập thể. Sách tu đức dạy rằng: khi không cần thiết thì đừng nói, kẻ nói nhiều cho dù là nói những điều tốt thì cũng là người trống rỗng. Ngày nay, người ta quá bận rộn với Iphone và truyền hình, đến nỗi không đủ kiên nhẫn để nghe nhau và hiểu nhau, bởi đó muốn trao đổi gì thì nói nhanh và nói vào trọng tâm, thật khó để giải tỏa tâm lý vì không có người lắng nghe. Vì lòng bác ái, hãy tập kiên nhẫn nghe ai đó thổ lộ tâm tình, nhất là người già và người bệnh: Chúa sẽ thương xót kẻ biết xót thương.



Bài đọc 2 (1 Cor 15, 54-58), Thánh Phao lô khuyên chúng ta: “Anh em hãy ăn ở bền đỗ và đừng nao núng; hãy luôn luôn thăng tiến trong công trình của Chúa. Hãy biết rằng công lao khó nhọc của anh em không phải là uổng phí trong Chúa”. Năm Thánh 2025 có chủ đề "Những Người Lữ Hành Hy Vọng", với lời mời gọi "sống đức tin cách sâu sắc và vững vàng. Hành trình đức tin không tránh khỏi những khó khăn và thử thách, nhưng với niềm hy vọng đặt nơi Đức Kitô, chúng ta được mời gọi bước đi trong tin tưởng và bình an. Thánh Thể chính là nguồn sức mạnh và niềm an ủi trên cuộc hành trình này, giúp chúng ta hướng đến sự sống đời đời. Hãy cùng nhau sống tinh thần lữ hành hy vọng, trở thành ánh sáng thế gian, và dẫn đưa những người khác đến gần Thiên Chúa hơn" (Phaolô. Phạm Xuân Khôi).

Chúa mời gọi ta: mỗi ngày sống hãy tiến bước trên đường lành, hãy thăng tiến trong công trình của Chúa, cụ thể là nỗ lực trở nên một tạo vật mới. Đừng chôn vùi tài năng Chúa ban, đừng chờ cơ hội để làm việc lớn – tốt hơn hãy cộng tác trong những việc phù hợp với khả năng của mình để xây dựng Giáo xứ và góp phần vào công cuộc truyền giáo. Hãy làm mọi việc vì lòng mến Chúa, đừng làm vì người đời – làm để tạo tiếng vang. Chúa thấu suốt tâm can ta từng gang tấc và Người sẽ trả công cho mỗi người xứng đáng việc họ làm.