Danh sách Blog của Tôi

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2025

Khuôn mặt sáng láng

 



Sách Sáng Thế kể lại việc ‘sau 40 đêm ngày tiếp xúc với Thiên Chúa trên núi Si-nai để ghi lại Thập Điều, ông Moi sen xuống khỏi núi, không ai dám đến gần ông vì khuôn mặt ông sáng láng – khiến họ chói mắt, hiện tượng này còn kéo dài một thời gian nên ông thường dùng khăn che mặt lại và khi đàm đạo với Chúa nơi Nhà Xếp thì ông cất khăn đi’ (Xh 34, 29-35). Điều này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi tự vấn: ‘Mỗi lần đến với Chúa, tôi có được sáng láng hơn một chút không, cuộc sống của tôi có thay đổi tốt hơn không?

Sách Xuất Hành kể lại Thập giới được khắc ghi 2 lần. Lần đầu là hai tấm bia Chứng Ước – viết cả hai mặt, được chính Thiên Chúa khắc chữ trên đá (Xh 32, 15-34), vừa xuống khỏi núi –chứng kiến dân thờ con bò vàng nên ông Moi sen ném bể cả hai bia đá, thời gian ông Moi sen ở trên núi khá lâu, nhưng khuôn mặt ông chưa biến đổi. Lần hai, ông Moi sen lưu lại trên núi Si nai 40 đêm ngày và ông ghi những lời Chúa phán vào hai bia đá, khi ông xuống núi –dân chúng lẩn tránh ông vì da mặt ông sáng láng mà ông không hay biết. Có thể nói việc khuôn mặt ông rực sáng là một phép lạ Chúa làm để dân chúng thêm lòng kính trọng vào người Chúa chọn, nhưng đây cũng là một biểu tượng: khi ông có một sự tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa như một người bạn, nội tâm ông được biến đổi nên giống Chúa, thì diện mạo ông cũng đổi khác. Điều này nhắc nhở ta: khi ta thường xuyên sống cầu nguyện, siêng năng tham dự bí tích Thánh Thể, sống theo Lời Chúa dạy, thực thi bác ái …thì cách cư xử của ta lan tỏa một sự thánh thiện nào đó – như câu ngạn ngữ: bàn tay tặng hoa hồng thường lưu lại hương thơm. Sách TĐCV kể lại: chính tại Antiokia, lần đầu tiên xuất hiện danh từ 'Ki tô hữu', có thể hiểu từ này 2 cách: có Chúa Ki tô trong mình (Chúa Ki tô sống trong tôi), và có mối liên hệ thân tình như bạn hữu Chúa Ki tô. 



Sự sáng láng của khuôn mặt ông Moi sen là do ông được tiếp xúc lâu ngày với Chúa, điều này nhắc nhở ta về sự thánh thiện của con người là do sự gần gũi với Thiên Chúa là Đấng Thánh. AI định nghĩa sự thánh thiện như sau: “Sự thánh thiện trong Kitô giáo bắt nguồn từ Thiên Chúa và được thể hiện qua đời sống noi gương Chúa Kitô, kết hợp với Bí tích Thánh Thể, và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nó không chỉ là sự tinh sạch về đạo đức mà còn là sự hoàn thiện trong mọi khía cạnh của đời sống, hướng tới sự viên mãn trong Chúa”. Chúa Giê su đã khẳng định: “Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).

Chúng ta không mong chờ việc tiếp xúc với Chúa mang lại sự sáng láng của khuôn mặt cho bằng sự trong sáng của tâm hồn. Câu đầu tiên của tông huấn Niềm Vui Tin Mừng viết: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giê su”. Đúng rồi, tâm hồn những ai tìm Chúa phải tràn ngập niềm vui trong Chúa, họ biết mình đón nhận mọi sự từ Chúa, bước đi trong Chúa và chỉ có Chúa là đủ. Thế gian dễ buồn rầu và thất vọng vì họ theo đuổi những thú vui phù phiếm, danh vọng hão huyền, sự tự mãn và tham lam… là những thứ rất dễ đổi thay và con người phải buông bỏ khi cái chết đến. ĐGH Bê nê dic tô 16 có một câu rất nổi tiếng: “Ở nguồn gốc của việc làm một Ki tô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định”.

Vấn đề là chúng ta có thường xuyên thực hành 4 thói quen mà Giáo hội tiên khởi đã sống không?- chuyên cần cầu nguyện, siêng năng tham dự Lễ Bẻ Bánh, lắng nghe Lời Chúa được dạy bởi các Tông đồ, hiệp thông huynh đệ. Có thể nói: một người siêng năng đến nhà thờ cầu nguyện là dấu hiệu đáng mừng, vì ẩn hiện một đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa! Còn người vắng mặt khỏi cộng đoàn, chỉ đi lễ chúa nhật thường có nhiều lý do: đi lễ vì sợ tội, sức khỏe thể lý và sức khỏe tâm linh không tốt, bất mãn với ai đó hoặc mất lòng tin vào Chúa.

Sự thánh thiện của Ki tô giáo bắt nguồn từ sự tiếp xúc với Thiên Chúa. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta trở thành một tạo vật mới, tham dự vào sự sống của Đức Ki tô, trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần. Tuy vậy, bí tích rửa tội không miễn trừ cho chúng ta những cơn cám dỗ phạm tội, giống như việc dân Do Thái ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập: Việc đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai cập thì chỉ cần một thời gian rất ngắn, nhưng để lấy ách nô lệ ra khỏi tâm hồn dân Do Thái thì Thiên Chúa phải mất một thời gian dài. Bởi đó, luôn cần đến bí tích Hòa giải. Có thể nói: bí tích Thánh Thể và bí tích hòa giải là thước đo sức khỏe tâm hồn. Để được Chúa biến đổi tâm hồn nên sáng láng, mỗi Ki tô hữu phải duy trì sự liên lạc thân tình với Chúa Giê su. Nhà tu đức dạy: “Buổi sáng, ai không gặp Chúa trên núi cao – thì suốt ngày khó gặp Chúa nơi đồng bằng”.

Thứ Hai, 28 tháng 7, 2025

Hạt cải và Nắm men

 



Đây là hai dụ ngôn rất ngắn Chúa Giê su dùng để diễn tả nước trời (Mt 13, 31-35). Nước trời hoặc nước Thiên Chúa là một thực tại có thật và quá phong phú, rất khác với những thực tại xã hội khác, nên Chúa Giê su thường dùng các dụ ngôn để diễn tả, mỗi dụ ngôn thường diễn tả một vài khía cạnh của nước đó mà thôi. Hai dụ ngôn hạt cải và nắm men diễn tả sự bé nhỏ của nước trời nhưng rồi một sự phát triển rất phi thường khi hạt cải mọc lên và khi nắm men làm cho 3 thúng bột dậy men.

Trước hết thực trạng nắm men đúng cho công cuộc nhập thể của Chúa Giê su: Chúa tự hủy đến mức không ai ngờ và tưởng chừng như thất bại - nhưng rồi Ngài đã phục sinh sau 3 ngày nằm trong lòng đất! Thực trạng đó đúng cho thời Chúa Giê su: khi Chúa khai mở nước trời và sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, con số những kẻ tin quá ít ỏi và còn bị vùi dập – bách hại, nhưng rồi Giáo hội vẫn lớn lên thành cây cho chim trời làm tổ và khi các Ki tô hữu bị phân tán đến đâu thì loan báo Tin Mừng đến đó. Đây là một mầu nhiệm, hạt giống Tin Mừng lớn lên và biến đổi khối bột nhân loại đông hơn – quyền lực hơn và giàu có hơn. Thực trạng đó vẫn luôn đúng cho mọi thời, kể cả hôm nay: lịch sử Giáo hội hơn 2000 năm đã trải qua biết bao sóng gió, có lúc bị bắt bớ - có lúc bị tục hóa và có lúc hoang tàn như một di tích cổ… nhưng bên trong vẫn ẩn tàng một sức sống mãnh liệt: Thiên Chúa vẫn hiện diện và vẫn là chủ của vũ trụ, Chúa Thánh Thần vẫn làm cho khối bột nhân loại luôn đầy dẫy những tâm hồn thiện chí – thờ phượng Chúa trong niềm vui và Giáo hội vẫn là nơi chim trời đến làm tổ. Lịch sử Giáo hội chứng minh rằng: những lúc Giáo hội bị suy đồi về luân lý và đức tin thì Chúa cho những vị thánh xuất hiện và Giáo hội lại hồi sinh – khối bột lại được dậy men nhờ một vài con người rất bé nhỏ nhưng biết sống đúng Tin Mừng.



Chúng ta cùng đọc lại một vài tư tưởng của ĐGH Phanxico trong tông huấn ‘Niềm Vui Tin Mừng’ số 76-86 nhắn gửi những người truyền giáo (các Ki tô hữu):

-Sự đau lòng và xấu hổ về những sai lầm của một số thành viên trong Hội Thánh không được làm cho chúng ta quên rằng có biết bao Ki tô  hữu đã và đang dâng hiến cuộc đời và thời gian của họ trong niềm vui: họ giúp đỡ những người nghiện ngập ở những vùng nghèo nhất trên thế giới, họ giáo dục trẻ em và thanh niên, họ chăm sóc những người già cả bị bỏ rơi, họ cầu nguyện cho thế giới…chứng từ của họ khích lệ người khác vượt qua sự ích kỷ để dấn thân hơn nữa. Đừng để cho mình bị cướp mất niềm vui Tin mừng!

-Nhiều Ki tô hữu và nhà truyền giáo bận tâm quá đáng về tự do cá nhân và giải trí của mình đến nỗi quên đi căn tính Ki tô hữu và nhiệt tình truyền giáo của mình. Nền truyền thông và một số nhà trí thức mô tả những thực trạng Giáo hội thiếu khách quan – gây nên một sự yếm thế và ngờ vực… dẫn đến một sự mặc cảm nơi các  Ki tô hữu và nhà truyền giáo đến nỗi họ che giấu căn tính của mình và làm suy yếu việc dấn thân, để rồi bận tâm quá đáng về việc giống như mọi người và có những gì người khác có, có quyền hành và vinh quang loài người, thay vì nhiệt tâm truyền giáo. Niềm vui Tin Mừng là điều không ai và không gì có thể tước đoạt khỏi tay chúng ta (Ga 16, 22). Những sự dữ của thế giới và của Hội Thánh không phaỉ là một lý do để giảm bớt sự dấn thân và nhiệt tình cuả chúng ta. Hãy chỉ coi chúng như những thách đố để lớn lên. Cần có con mắt đức tin để nhận ra ánh sáng mà Chúa Thánh thần luôn tỏa lan trong bóng tối, khám phá ra rượu mới được biến đổi từ nước lã, và hạt lúa vẫn mọc lên giữa đám cỏ dại. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất nhiệt tâm truyền giáo!

- -Trên thế giới nhiều dự án xã hội được xây dựng mà không có Thiên Chúa hoặc phá hủy gốc rễ Ki tô giáo của họ, và một số nước khác việc chống đối Ki tô giáo bằng bạo lực đã dẫn đến tình trạng kiệt quệ và sa mạc hóa những giá trị Ki tô giáo … các Ki tô hữu được mời gọi là người mang bình nước để phân phát nước uống cho người khác. Đôi khi cái bình biến thành cây Thánh giá nặng nề, nhưng chính từ trên Thánh Giá, nguồn nước trường sinh được ban tặng cho mọi người. Chúng ta đừng để cho mình bị cướp mất niềm hy vọng!

Cuộc chiến giữa bóng tối và ánh sáng, giữa hận thù và tình thương, giữa cỏ lùng và lúa tốt, của thất vọng và hy vọng vẫn không ngừng xảy ra từng giây phút trên khối bột nhân loại và trong từng tâm hồn, không có ngừng bắn và không có giải pháp thay thế: Chúa chấp nhận cỏ lùng mọc chung với lúa cho tới mùa gặt. Hãy cậy dựa vào Chúa, vì sức mạnh của Chúa Giê su phục sinh đủ sức giúp chúng ta vượt qua bất cứ tật bệnh tâm hồn nào và chiến thắng sự ươn lười nội tâm để yêu Chúa với trọn tâm hồn, bước đi trong niềm vui.

ĐẤU TRANH VỚI TÍNH TỰ ĐẠI

 


 


Rev. Ron Rolheiser, OMI

Chúng ta sống trong một thế giới mà mọi thứ đều kích động mạnh đến thói tự đại của chúng ta, trong khi đó thì càng ngày càng ít công cụ để cự lại với nó.

 

Vài năm về trước, Robert L. Moore đã viết một quyển sách rất ý nghĩa, với tựa đề Đối diện Con Rồng [Facing the Dragon].  Moore tin rằng con rồng đe dọa chúng ta nhất, chính là con rồng của tính tự đại trong chúng ta, nó khuấy động nội tâm chúng ta khiến chúng ta tin rằng mình đặc biệt phi thường và mang số mệnh cao cả.  Tình trạng này bủa vây tất cả chúng ta.  Nói đơn giản, mỗi người chúng ta, mỗi một trong bảy tỷ người trên trái đất, không thể nào không cảm thấy mình là trung tâm của vũ trụ.  Và bởi điều này gần như vô thức, đồng thời chúng ta lại thiếu khí cụ để giải quyết nó, nên nó gây ra một tình trạng đáng lo sợ.  Tự đại không phải là công thức cho hòa bình và hòa hợp, mà là cho ghen tương và xung đột.

 

Mà tình trạng này không phải lỗi của chúng ta, và tự nó cũng không phải là là một khiếm khuyết đạo đức trong bản tính của chúng ta.  Sự tự đại của chúng ta phát xuất từ cách Thiên Chúa tạo thành chúng ta.  Chúng ta được tạo dựng theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa.  Đây là chân lý giáo điều căn bản nhất trong nhận thức Do Thái - Kitô giáo về nhân thể.  Tuy nhiên, không thể hiểu nó theo kiểu đơn giản hóa, như kiểu một biểu tượng đẹp đẽ được đóng dấu vào linh hồn chúng ta.  Đúng hơn, cần phải hiểu thế này: Thiên Chúa là lửa, lửa bất diệt, một sinh lực không ngừng tìm kiếm để ôm trọn và thổi bùng mọi tạo vật.  Và ngọn lửa đó có trong chúng ta, khơi lên trong chúng ta những cảm thức thần linh, một trực giác rằng chúng ta cũng có sinh lực thần thiêng, và cũng là một áp lực muốn trở nên đặc biệt phi thường và đạt được một sự cao cả nào đó.

 

Có thể nói, được tạo thành theo hình ảnh và giống với Thiên Chúa, nghĩa là có một con chíp thần thiêng bên trong chúng ta.  Nó thiết lập cho chúng ta phẩm giá cao cả nhất nhưng cùng lúc tạo nên những vấn đề lớn lao nhất.  Sự vô hạn không nằm yên trong cái hữu hạn.  Bởi có sinh lực thần thiêng bên trong, nên chúng ta không dễ bình yên trong thế giới này, những khao khát và mong mỏi của chúng ta quá vĩ đại.  Chúng ta không chỉ sống trong sự bất an triền miên mà thánh Augustine nêu bật trong châm ngôn lừng danh: Ngài đã tạo thành chúng con cho Ngài, lạy Chúa, và lòng chúng con khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Ngài.”  Mà sự tự đại bẩm sinh này còn khiến chúng ta không ngừng nuôi dưỡng một niềm tin rằng chúng ta đặc biệt, có số mệnh độc nhất vô nhị, và được sinh ra để trội vượt, được công nhận, được biết đến với những sự phi thường của mình.

 

Và do đó tất cả chúng ta đều được một mã di truyền thần thiêng điều hướng để, có thể nói là tạo lập một cáo thỉnh trong đời, tạo lập sự bất tử cho riêng mình, và tạo nên một giả tượng phi thường mà thế giới phải để mắt đến.  Đây không phải là một khái niệm trừu tượng, nó tuyệt đối thực tế.  Chúng ta có thể thấy bằng chứng cho chuyện này trên mọi bản tin, trong mọi vụ đánh bom, trong mọi mưu đồ xấu xa táo tợn, và trong mọi tình huống khi ai đó muốn mình trội vượt.  Chúng ta cũng thấy nó trong sự đói khát danh vọng, trong khát khao được nổi tiếng, và trong nhu cầu muốn được nhìn nhận là độc nhất vô nhị và đặc biệt. Để cự lại với khuynh hướng này, phải dùng đến 2 liệu pháp:

 Về tâm lý, chúng ta cần biết chấp nhận những giới hạn, những sự nản lòng, sự vô danh của chúng ta, và cả việc cuộc sống chúng ta phải dành không gian cho cuộc sống người khác nữa: mình đặc biệt và độc nhất vô nhị, nhưng vẫn là một trong số hàng tỷ cuộc đời đặc biệt và độc nhất vô nhị khác nữa. Về tôn giáo, phải khiêm tốn nhận biết các thiên tư này không phải của chúng ta, mà là của Chúa, và tất cả những gì chúng ta là, và những gì chúng ta đạt được đều là ơn Chúa.  Chỉ khi đó, chúng ta mới không gục ngã vì thất bại và tự đắc vì thành công.

 

Robert Lax cho rằng, bổn phận trong đời không phải là tìm được lối mòn trong khu rừng, cho bằng đi tìm một nhịp điệu để bước đi.

 


 

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2025

NGÃ GIÁ

 



Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nhưng xin bao nhiêu, tìm bao lâu, và gõ bao lần? Lời Chúa hôm nay nói đến cầu nguyện; nói cách khác - ‘ngã giá!’. Abraham ‘ngã giá’; Chúa Giêsu dạy chúng ta ‘ngã giá!’.

Trước hết là cuộc ‘ngã giá’ của Abraham với Thiên Chúa; ông chèo kéo Ngài, một sự chèo kéo chỉ có ‘giữa những người bạn!’. Thoáng biết ý định nghiêm phạt hai thành của Ngài, ông nại vào một số người lành để xin tha cho họ. Không cầu cho bản thân, ông xin cho người khác; không cầu cho người nhà, ông xin cho người xa lạ; tuyệt hơn, không cầu cho người lành, ông xin cho kẻ dữ, “Chắc không được đâu!”. Thật tiếc, Abraham không dám tiến xa hơn, tiến vào cõi vô bờ của trái tim Thiên Chúa. “Không khi nào ta đi xa hơn trong cầu nguyện bằng lúc dám cầu cho phần rỗi của những người tưởng như không xứng đáng nhất!” - Karl Rahner. Đức Giê su đã chết thay cho chúng ta là những tội nhân, đã xóa sổ nợ bất lợi cho chúng ta bằng cách đóng đinh nó vào thập giá (Cl 2, 13-14).



Với dụ ngôn người bạn đi vay bánh cứ ngồi lì ra đó, Chúa Giêsu dạy chúng ta ‘ngã giá’ với Thiên Chúa. Và sự kiên trì khi cầu nguyện có thể trở nên dễ dàng hơn nhiều nếu chúng ta ‘nhớ mình đang nói chuyện với ai’ - Thiên Chúa là tình yêu! Và Chúa Giêsu kết luận, “Vậy, nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao”. “Chúa Thánh Thần không phải là phần thưởng cho người hoàn hảo, mà là quà tặng cho những ai gõ cửa, gõ mãi, không ngừng gõ!” - Carlo Carretto.

Một người đưa tin đến một toà nhà cũ kỹ, anh nhấc thanh gõ và gõ cửa. Không ai trả lời! Anh lại gõ… vẫn im ắng. Giận sôi lên - vì biết trong nhà có người - anh lại gõ. Một người bước ra, hỏi anh có muốn vào không. Vị khách như mê sảng, “Chẳng lẽ ai muốn vào cũng phải gõ như tôi?”. Chủ nhà từ tốn, “Ồ, có nhiều trẻ gõ rồi chạy, chúng tôi không cần để ý. Nhưng khi nghe ông gõ, tôi thực sự biết ông muốn vào. Vì thế tôi ra mở cửa!”.

Thiên Chúa không đóng cửa trái tim Ngài, nhưng Ngài không muốn chỉ bị “gõ cho có”. Có những lời cầu chỉ như trò trẻ con: gõ rồi bỏ chạy. Còn cầu nguyện thực sự là gõ bằng cả lòng khao khát. Lời cầu ấy chứng tỏ một đức tin thật sự ‘muốn ở lại’ - thật sự ‘muốn vào’. “Đôi khi cánh cửa không mở vì ta gõ to, mà vì ta đã ở lại!” - Etty Hillesum.

Anh Chị em,

“Ai gõ thì sẽ mở cho!”. Hãy cầu nguyện như những ‘người bạn’, ‘người con’ thực sự của Thiên Chúa! Ngài muốn biết chúng ta “thực sự muốn vào” để Ngài thông truyền sự sống mới, ban Nước Trời và Thánh Thần; thế mà nhiều khi chúng ta lại như các trẻ, gõ rồi bỏ chạy! Hãy gõ và “ước mong vào” thực sự! Thiên Chúa sẽ đổ Thánh Thần tình yêu và ân sủng của Ngài; và đây quả là ân ban tuyệt vời trên tất cả mọi sự. Đừng ngại gõ, ngại xin và ‘ngã giá’ với Ngài! Thánh Vịnh đáp ca thật ý nghĩa, “Lạy Chúa, khi con kêu cầu, Chúa đã nhậm lời con!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con gõ nhầm nhà, tìm nhầm người; và gõ, rồi bỏ chạy. Cho con biết con đang nói chuyện với ai - một người Cha quyền năng, một người bạn lành tính!”, Amen.

 

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2025

Ơn hiểu biết

 



Một trong 7 ơn Chúa Thánh Thần là ơn hiểu biết những mầu nhiệm nước trời mà Chúa Giê su nói đến trong bài Tin Mừng Mt 13, 10-17. Chúa nói cho ta biết có hai hạng người: kẻ biết suy đi nghĩ lại những soi sáng của trời cao, tựa như người sàng sảy nơi chợ đời biết thu lượm những điều giúp ích cho phần rỗi linh hồn – kẻ càng có lại được cho thêm; và hạng người khác là những kẻ lòng chai dạ đá, chẳng tin gì ngoài thế giới vật chất – chỉ tin vào bản thân mình, thì ngay cả một ít hiểu biết về chân lý cũng bị ma quỷ cướp đi.

Người Ki tô hữu trước hết là tin vào Thiên Chúa, vào sự mạc khải của Thiên Chúa – trải qua dòng lịch sử của thời Cựu Ước và vào Đức Giê su là Đấng đến để hoàn tất mạc khải của Chúa cho loài người. Thánh Augustino nói: Thánh Kinh là bức thư tình mà Thiên Chúa gửi cho chúng ta là bạn hữu của Người”.  Đọc lại 4 Tin Mừng, người ta nhận ra Chúa Giê su là nhà giảng thuyết rất tài tình, Ngài giảng giải những mầu nhiệm cao siêu của trời cao để người bình dân cũng có thể hiểu được: các dụ ngôn. Ngoài những lời dạy trực tiếp về Thiên Chúa, về những cách hiểu chưa đúng về lề luật và thực hành luân lý sai lệch, những tâm tình cầu nguyện… các dụ ngôn là một lối văn mà càng suy niệm thì con người càng kín múc những vị ngọt của chân lý, tùy theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.

Trong dụ ngôn người gieo giống Mt 13, 1-9, có 4 hạng đất thì có đến 3 hạng đất mà hạt giống trở nên vô ích và chỉ có một hạng đất tốt sinh hoa kết quả. Điều này nói lên sự lạc quan của Thiên Chúa và của chúng ta - những người gieo giống hôm nay: hãy tin rằng hạt giống sẽ mọc lên cách nào đó mà con người không biết, kẻ gieo người trồng chẳng là gì cả - chỉ Thiên Chúa mới cho mọc lên. Nhiều nhà giảng thuyết chia sẻ kinh nghiệm: có lúc mình đã soạn một bài rất kỹ, nhưng trên đường đến gặp cử tọa, bỗng dưng thay đổi ý kiến và nói về một điều gì đó… và sau này có người cho biết họ được thay đổi vì nghe bài giảng hôm ấy. Một nhà tu đức nói: “Nếu bạn cần nghe một điều gì đó, cho dù kẻ kia có ở đâu đi nữa thì Chúa cũng sai họ đến để nói cho bạn”. Trong một bài phỏng vấn, sơ Hồng Quế kể: ngày còn ở nhà tập, sơ khá nhút nhát, nhưng nay Chúa muốn dùng sơ vào công việc giảng thuyết thì Ngài ban ơn, vì sơ cũng không được học nhiều. Nhiều vị tiến sĩ Hội Thánh, dù không được học nhiều, nhưng Chúa trực tiếp mạc khải những mầu nhiệm nước trời cho họ.



Mẹ Maria là mẫu gương người môn đệ biết nghe Lời Chúa, Mẹ hằng suy đi nghĩ lại trong lòng những điều xảy ra với mình, những việc kỳ diệu Chúa làm và Mẹ đã thưa xin vâng trong suốt cuộc đời. So sánh với Mẹ, nhiều khi chúng ta quá ồn ào: lo lắng nhiều chuyện và nói liên lăng, nghe suốt ngày. Nếu có một scandal xảy ra, ta tiếp tục bàn tán từ ngày này qua ngày khác, cứ ‘suy niệm’ hoài chuyện không tốt đó, liên tục nói qua nói lại làm ô nhiễm môi trường gia đình… thay vì để lòng trí suy niệm những việc cao siêu trên trời thì ta cứ bận tâm về những chuyện vô bổ.

Mỗi ngày bạn hãy đọc và cầu nguyện với các bài đọc được dùng trong Thánh Lễ hằng ngày. Trước hết hãy xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, đọc chậm rãi và suy niệm về điều Chúa muốn nói với mình, cầu nguyện với những tâm tình mà Thánh Linh gợi cho mình. Dần dần bạn sẽ có một kiến thức về Kinh Thánh, thuộc một số câu quan trọng và Lời Chúa sẽ tác động lên cuộc sống của bạn dần dần. Hãy đọc Kinh Thánh như bức thư tình Chúa gửi riêng cho mình và cảm nếm những vị ngọt của tình yêu Chúa dành cho ai biết kính sợ Ngài.

Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2025

Dấu lạ và phép lạ

 



Sự thường ai cũng thích phép lạ. AI định nghĩa như sau: Phép lạ, hay còn gọi là điều kỳ diệu, kỳ tích, phép màu, là một sự kiện hoặc hiện tượng vượt ra ngoài khả năng giải thích bằng quy luật thông thường, đặc biệt là các định luật khoa họcNó thường được cho là có nguồn gốc từ các thế lực siêu nhiên như thần thánh, hoặc các khả năng đặc biệt của con người. 

Trên mạng xã hội bây giờ tràn ngập những video và youtube có liên quan đến tôn giáo do AI tạo ra ( theo prompt của người dùng), và người ta đang kêu gọi mọi người chung tay góp sức để xóa bỏ những sản phẩm nguy hại cho đức tin. Thỉnh thoảng tôi có nghe một vài youtube thuộc dạng kể chuyện tôn giáo (liên quan đến một vài xứ đạo hoặc cha Long, cha Diệp): có một tổ chức phá hoại cấu kết với nhau để vu oan làm hại cha xứ, cha Long, tượng cha Diệp, các sơ, các vị lãnh đạo dòng tu… và kẻ lạ mặt thường bị vạch mặt hoặc bị phạt nhãn tiền (phép lạ). Tôi nghe cho biết và để giải trí, tôi không tin những chuyện này là có thật, nhưng tôi nhận ra đây cũng là một cách giải thiêng tôn giáo: thế giới này tồn tại mà không có thần thánh gì hết, tất cả chỉ là vật chất và tôn giáo chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng và ma mị của con người… bởi thế nghe nhiều cũng không tốt.



Bài Tin Mừng Mt 12, 38-42 kể chuyện: Người Do Thái xin Chúa một dấu lạ, Chúa nói tới điềm lạ Gio na. Vì trốn nhiệm vụ Chúa giao phó, tiên tri Gio na nằm trong bụng cá 3 đêm ngày và cá nhả ông ra nơi Chúa muốn để loan báo cho thành Ninive, và họ đã hoán cải theo lời ông loan báo. Việc ông Giô na nằm trong bụng cá được xem là một phép lạ, nhưng dân thành Ninive nhận ra sự xuất hiện của ông và sứ điệp ông loan báo là một dấu lạ của thời đại và họ đã hối cải. Chúng ta cần phân biệt: phép lạ là những sự kiện xảy ra ngoài những quy luật tự nhiên, còn dấu lạ là những sự kiện lạ nhưng truyền đi một thông điệp, ta thường gọi là những dấu lạ thời đại, giúp con người điều chỉnh cuộc sống cho phù hợp với ý trời, như một lời cảnh tỉnh để tránh được những đại họa cho con người. Chúa trách Người Do Thái vì không nhận ra chính Người là dấu lạ - là Lời Khôn Ngoan của Thiên Chúa, và họ không tin và không hoán cải.

Người ta thường đi hành hương đến các đền thánh, địa danh Đức Mẹ, Lòng Thương Xót, Đồi Thánh Giá… trước là để thỏa mãn nhu cầu du lịch, sau là để cầu xin ơn lành phần xác và phần hồn. Việc Chúa chăm sóc và ban ơn cho con người là một thực tại có thật và xảy ra hằng ngày, dù con người có nhận ra hay không, vì Chúa là người Cha và là người Mẹ - tốt hơn bất cứ người cha mẹ trần gian nào của chúng ta. Điều quan trọng là đừng biến Chúa thành ông thần ông bụt bị điều khiển bởi những đứa con hư: đòi quà mà không biết thay đổi cuộc sống như lòng Chúa mong ước - tuân giữ lề luật Chúa để được sự sống đời đời. Có một vị tu sĩ nổi tiếng là hay làm phép lạ, một người kia tìm đến để mong chứng kiến vài điều lạ cho thỏa lòng mong ước, ông gặp chú tiểu và nói lên ước vọng của mình, chú tiểu trả lời: ở đây phép lạ xảy ra hằng ngày- không kể xiết, có những phép lạ xảy ra khi trời chiều theo lòng người, nhưng nhiều hơn nữa là những phép lạ xảy ra khi con người chiều theo ý Chúa.

Thời đại ngày nay dường như phép lạ ít xảy ra vì con người không mong chờ phép lạ, họ lý luận: Chúa chẳng ưa làm ngược những quy luật vạn vật mà Ngài đặt ra, Chúa chẳng hơi đâu mà để ý đến con người, giàu hay nghèo – bệnh tật hay khỏe mạnh là do nơi cách sống và nỗ lực của con người… những người nghĩ như vậy thì họ ít chạy đến với Chúa và từ từ rơi vào tình trạng vô thần. Đọc trong Tin Mừng, Chúa Giê su luôn ca ngợi lòng mạnh tin như là điều kiện để phép lạ xảy ra: con tin thế nào thì được như vậy. Mỗi lần mất một đồ vật quan trọng, mỗi khi thử thách ập đến, bệnh tật nan y, ta thường khẩn khoản nài xin sự trợ giúp của Chúa – Đức Mẹ - các thánh – các linh hồn trong gia tộc trợ giúp, nhiều khi ta được ơn rõ ràng nhưng đôi khi sự trợ giúp dường như không đến, hãy cẩn thận trong những trường hợp này: Thiên Chúa có muôn vàn cách biểu lộ tình thương của Ngài. Thiên Chúa thường dùng dấu lạ để giúp con người hoán cải, nhưng Ngài cũng thường dùng gian nan để giúp ta rèn luyện nhân đức. Dù thế nào đi nữa, Chúa vẫn là Đấng toàn năng và rất mực yêu thương, thường đi bước trước trong việc tìm kiếm con người.



Đừng theo Chúa để được phép lạ và sự may lành, hãy mến Chúa vì Ngài là Đấng trọn tốt trọn lành. Tôi còn nhớ một lời cầu nguyện của một cô gái Do Thái, đã biết đến giáo lý Ki tô – nhưng chưa rửa tội, lúc xuống tàu để bị đưa đến Đức (thời đệ nhị thế chiến): “Lạy Chúa, con biết điều gì đang chờ đợi con trong tương lai gần, nhưng Chúa không thắng được con đâu: con luôn tin vào Chúa vì biết rằng Chúa luôn ở với con”. Phép lạ có thể biến thành dấu lạ khi nó giúp ta thay đổi cuộc sống phù hợp với Tin Mừng, nhưng dấu lạ chỉ là phép lạ cho người nhìn ra ý Chúa. Cuộc sống là một cuộc vật lộn trong đức tin, và chỉ có kẻ dũng mãnh mới chiếm được nước trời: Đừng tìm phép lạ, nhưng hãy nhìn thấy những dấu lạ thời đại và những dấu lạ Chúa để lại -dấu vết của tình thương- luôn dồi dào trong cuộc đời, để thêm vững tin và để luôn ngợi ca tình thương của Ngài.

Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2025

Phục vụ

 



Có lẽ không có gì khó và quan trọng trong cuộc hành trình dương gian cho bằng hai chữ phục vụ. Khó vì nó đi ngược với bản tính tự nhiên và phải tập tành mãi cho đến giây phút cuối đời, vì ai cũng thích được phục vụ hơn là phục vụ. Tầm quan trọng của hai chữ phục vụ thì đã rõ: Ai biết phục vụ trong khiêm tốn thì được vào nước trời, còn ai ngó lơ không nhìn thấy nhu cầu của anh em thì bị loại khỏi nước hằng sống (Mt 25, 31-46).

Ba bài đọc CN 16TN C nói đến việc hầu hạ và phục vụ: phục là cúi xuống, là công việc của người hầu đối với người chủ. Sách St 18, 1-10 kể lại câu chuyện ông Abraham đón tiếp 3 vị khách: ông đon đả và phục lạy mời khách vào ghé thăm nhà, ông bắt bê làm thịt và bảo làm bánh, đem nước cho các vị rửa chân, và chính ông đứng hầu hạ các vị ăn uống. Người Do Thái rất quý trọng khách lạ, xem họ như sứ giả của Thiên Chúa. Tự thâm tâm, ông Abraham tiếp đón vì lòng thương xót và quý trọng – không vì lợi lộc, nhưng khi đón tiếp sứ thần Chúa vào nhà thì ông được tràn ngập niềm vui và sự bình an. Thánh Phao lô (Cl 1, 24-28) nói: Ngài vui mừng được chịu đau khổ vì Hội thánh, được đóng góp phần riêng mình vào giá cứu chuộc của Chúa Giê su… Thánh nhân nói đến hình thức khác của việc phục vụ: hiến dâng mạng sống mình như của lễ để mưu ích cho Hội Thánh. Có thể nói trong việc phục vụ, có hai dáng vẻ: phần này chủ động làm việc và hoạt động, còn phần kia nội tâm hơn và là phần quan trọng hơn: dâng hiến cuộc đời trở nên của lễ thơm tho đẹp lòng Thiên Chúa. Còn bài Tin Mừng Lc 10, 38-42 cũng nói về hai hình thức phục vụ: cầu nguyện và hoạt động, ai cũng phải ưu tiền phần cầu nguyện, vì việc nên thánh và truyền giáo là công trình của Chúa và Chúa nắm phần chủ động.

Chữ servus trong tiếng La tinh có 3 nghĩa: việc hầu hạ, sự giúp đỡ và dịch vụ. Chúng ta nhớ đến hành động rửa chân cho các môn đệ trong bữa tiệc ly, và lời dạy của Chúa: Thầy đến không phải để được phục vụ mà để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc cho muôn người (Mc 10, 45). Bản tính tự nhiên không ai thích làm những việc hèn hạ, vô danh, không ai thấy và không mang lại lợi nhuận; ai cũng thích người khác phục vụ mình, người kia đứng hầu hoặc lúi húi này nọ - còn mình thì ngồi nghỉ và hưởng thụ. Tôi có một anh bạn, khi khỏe mạnh đã rất siêng năng phục vụ trong gia đình, nay anh bị cưa mất một chân tới phía trên đầu gối… nhưng câu nói của anh làm tôi phải giật mình vì anh ngồi xe lăn và “Có thể rửa chén rồi”. Nhiều gia đình tan vỡ vì một ai đó nhác quá, vô tâm để gánh nặng cho người kia gánh – tháng này qua năm khác, tạo nên sự coi thường – dẫn đến khinh miệt và không thể chịu đựng nhau nữa. Hãy tập phục vụ nhau trong đời sống hằng ngày: làm việc nhà và việc người kia yêu cầu. Ngày mới yêu nhau, người ta tìm cách làm vui lòng nhau bằng những lời hoa mỹ và những bông hoa hồng, nay trong đời sống gia đình – tuy vẫn cần lời động viên và những món quà, nhưng điều không thể chước được là: lòng yêu thương phải thể hiện bằng hành động chăm sóc nhau – từ lòng yêu thương sẽ nảy sinh lòng kính trọng, sự dâng hiến và hạnh phúc. Đón tiếp khách lạ như sứ giả của Chúa là điều phải lẽ, nhưng việc cần thực tập mỗi ngày là đón tiếp vợ con vào đời mình: đừng ghẻ lạnh với mong ước của nhau, phải tiếp tục tìm hiểu nhau – đừng bao giờ nghĩ mình biết tỏng con người của nhau – vì mỗi ngày sống mở ra với một huyền nhiệm và trang sách mới: hãy cởi dép ra với sự thánh thiêng của từng người trong gia đình.



Ai trong chúng ta cũng mong sống lâu và thật lâu bao nhiêu có thể, nhưng thỉnh thoảng nhìn lại ta thấy mình chẳng làm nên công trạng gì. Thực ra, người nổi tiếng và thiên tài chỉ là số ít, còn đa số nhân loại chỉ làm những công việc bình thường: công sở hoặc nương rãy để kiếm tiền, việc nhà, nấu nướng bếp núc, chăm sóc nhau, giải trí, tham dự phụng vụ và sinh hoạt xã hội… Nhưng có một lệnh truyền cho mọi người: “Các ngươi hãy nên thánh vì Ta là Đấng Thánh” (Lv 19, 2) Sách tu đức dạy rằng: Dù làm công việc gì, bạn hãy làm tốt công việc đang làm trong hiện tại, vì đó là ý Chúa. Câu nói của Chúa với Matta có thể là câu thần chú mang lại bình an: “con lo lắng bối rối nhiều chuyện quá”. Tôi thấy có những người miệng cứ bép xép trong giờ tập hát và cả giờ lễ, hãy nghe Chúa nhắc: con lo lắng bối rối nhiều chuyện quá. Tôi đã từng mắc chứng bối rối: đang làm việc này lại muốn làm chuyện khác, đang cầu nguyện đọc kinh thì lại chia trí đến việc làm khác. Đôi khi thấy mình quá bận tâm đến chuyện người khác: chuyện riêng đời họ, sai lầm của họ, chuyện không quan trọng và ngoài phạm vi của mình… thì hãy nhớ lời Chúa nói và bạn sẽ tìm được bình an.  

Là những người phục vụ Giáo hội, phục vụ Tin Mừng, chúng ta nên thường xuyên xem lại lòng mình: mình phục vụ có nhiệt tình và khiêm tốn không, vì ham tiếng khen và mong Chúa trả công? Hãy nhớ lời Tin Mừng: “Anh em đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Với thời gian, gánh nặng càng trở nên nặng hơn, bởi đó những người phục vụ phải có sự bền chí và hãy phục vụ trong niềm vui, hân hoan vì được đóng góp phần mình vào việc xây dựng Hội Thánh.

 

 

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2025

Không sám hối

 



Chúa Giê su trách những thành đã chứng kiến nhiều phép lạ và nghe lời rao giảng của Chúa nhưng không chịu sám hối (Mt 11, 20). Điều này đáng cho ta suy nghĩ, nhiều khi chúng ta có phần nào đó giống dân Kho-radin, Bết xai da và Ca phác naum: đa số chúng ta được rửa tội từ tấm bé, đi nhà thờ đều đặn mấy chục năm trời… để rồi dễ quên vài điều: kẻ nhận nhiều thì phải trả nhiều, chúng ta có sống như lòng Chúa mong ước không, có cần phải sám hối nữa không – hay đã tốt và thánh đủ rồi?

Trong thời đại chúng ta, nền thần học được khuyến khích nói về lòng thương xót hơn là nói về sự nghiêm khắc và trừng phạt của Thiên Chúa. Ngày nay rất hiếm khi nghe các linh mục giảng về sự nổi giận của Thiên Chúa và những hình phạt lửa thiêu đốt trong hỏa ngục, ta ngại nhìn hình ảnh và nghe nói về ma quỷ. Nhưng trong Tin Mừng, chúng ta vẫn gặp những câu nói nghiêm khắc Chúa Giê su dành cho những người không sám hối – không thay đổi cuộc sống cho phù hợp với giáo lý Chúa dạy: Ta không biết các ngươi, hãy cút cho khỏi mặt Ta. Chúa Giê su vẫn thường nói đến sự thưởng phạt khi đến ngày tận cùng thế giới, và cách riêng, sự thưởng phạt sẽ đến sớm hơn cho từng người ngay sau cuộc phán xét riêng – khi ta đến trình diện Chúa.

Tôi còn nhớ lời một cha giáo dạy: “Nếu quá nhấn mạnh rằng Chúa là Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót thì e rằng ở hỏa ngục rất vắng vẻ, nhưng nếu nhấn mạnh đến sự công thẳng của Thiên Chúa thì e rằng thiên đàng rất ít người cư ngụ”. Bởi đó, hãy luôn nhớ rằng: mình là khách lữ hành đang tiến về quê trời, hãy lo kiếm sống và thường xuyên biết hướng mắt nhìn về quê trời và chuyên tâm lo lắng cho phần rỗi linh hồn như là mục đích quan trọng nhất trong cuộc đời.

Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, tin vào Đức Giê su – Đấng đã chết và phục sinh - để được ơn cứu độ’ là nội dung căn bản của giáo lý Ki tô giáo (Kerygma). Chúng ta thử tìm hiểu nguyên do tại sao mà dân những thành bị Chúa trách lại không sám hối?- Thứ nhất là họ đến với Chúa là để tìm dấu lạ, lợi lộc vật chất như chữa bệnh – được ăn no – thỏa tính tò mò; thứ hai là vì họ chưa đủ tin vào Chúa Giê su nên không dám đánh đổi đời mình để sống như Lời Chúa dạy; thứ ba là ơn Chúa chưa lôi kéo họ đủ và chưa có sự cộng tác của từng tâm hồn: lắng nghe, suy đi nghĩ lại, quỳ gối xuống để lãnh nhận ơn thánh. Sự cứng lòng của chúng ta cũng có phần nào đó giống họ: mình cũng theo Chúa giống như mọi người, cũng tầm tầm thường thường vậy thôi, không tích cực mà cũng không xấu xa như nhiều người khác, việc sám hối là dành cho những tội nhân ngoại hạng – còn tôi còn tốt chán. Hãy nhớ rằng: thiên đàng không có chỗ dành cho người không làm điều tốt, bởi đó việc sám hối là việc của những người bước ra khỏi sự tầm thường để sống tốt hơn như lòng Chúa mong ước, là việc làm của mỗi ngày. Cha xứ giáo xứ Vinh Hương thường nêu lên một ý lễ rất đặc biệt: xin ơn biết sống đẹp lòng Chúa.

Một trong những lý do để ta không sám hối là so sánh với người khác. Đừng quên rằng Thiên Chúa có một sự lãng phí lớn lao: Ngài tạo nên mỗi người không ai giống ai, trong 7 tỷ người trên hành tinh này không ai là bản sao (coppy) của người khác, mỗi người có những nén bạc và thánh giá khác nhau… nên việc so sánh cuộc hành trình của mình với một ai đó là không hợp lý và rất sai lầm: mỗi người có con đường phải đi, hãy so sánh mình với Thiên Chúa. Những lệnh truyền của Chúa như: Hãy đi rao giảng Tin Mừng, hãy nên trọn lành như Cha trên trời, hãy tha thứ cho anh em như Cha trên trời mình đã tha thứ, hãy vác thập giá mình mà theo Thầy, anh em hãy đón nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không… có một giá trị phổ quát (dành cho mọi người) nhưng cũng có những âm hưởng riêng tùy ân ban của Chúa dành cho từng tâm hồn. Tốt nhất là hãy sám hối, hãy so sánh mình với Chúa, ai ra sao mặc họ - vì mỗi người đều có con đường phải đi.



Không sám hối nói lên một sự xơ cứng tâm hồn, trong giáo dục người ta dùng tĩnh từ ‘cố chấp’. Trên hành trình sống đạo, Chúa muốn từng tâm hồn phải có một sự nhiệt thành: nóng thì nóng hẳn, lạnh thì lạnh hẳn, đừng hâm hâm dở dở… tại sao vậy? – thưa: người dốt biết mình dốt thì mới quyết tâm học, người biết mình chưa tốt thì mới quyết tâm trở nên tốt hơn. Chúa muốn ta trở nên như trẻ nhỏ: biết cậy dựa và tin tưởng tuyệt đối với cha mẹ, và quan trọng hơn là tình yêu con trẻ dành cho cha mẹ là một tình yêu tinh tuyền, tha thiết, không so đo tính toán: chỉ muốn làm vui lòng cha mẹ. Chúa mong bạn và tôi có một sự gắn bó mật thiết với Chúa, tiếng Chúa sẽ nói cho ta biết điều gì là tốt và điều gì là xấu, tình yêu Chúa sẽ thúc bách tâm hồn ta sám hối - thay đổi như lòng Chúa mong ước.

Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2025

Luật trời

 



Ông Moi sen nói với dân Do Thái: những lời được ghi trong Kinh Thánh Cựu ước là những mạc khải của Thiên Chúa cho con người để họ được sống đời đời; Lời không ở nơi cao trên trời và xa bên kia biển, mà Lời được ghi trong sách và trong lòng người (Tl 30, 10-14). Trong những chuyện thần thoại và kiếm hiệp thường nói tới những ‘bí kíp’ là những công thức bí mật được cất giấu ở những nơi tuyệt mật – đem lại sức mạnh siêu việt cho ai sở hữu được nó.

Tin Mừng Gioan mở đầu: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Lời ở với Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa” (Ga 1, 1), Và khi đến thời viên mãn Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để hoàn tất mạc khải và hiến thân mình làm giá chuộc cho muôn người: “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1, 20). Ngôi Lời đã làm người, nên Lời của Chúa Giê su được phán như Đấng có uy quyền, và Ngài đã tóm gọn lề luật trong một điều luật quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu người thân cận như chính mình” (Lc 10, 27). Chúng ta nhận ra rằng: bí kíp này hoàn toàn là của Cựu Ước, không có một chữ nào của thời Tân Ước, vậy công trình nhập thể, rao giảng, chết và phục sinh của Chúa không có một ý nghĩa gì đáng kể sao? – Thưa, Chúa Giê su đến để thực hiện lời dạy đó như một gương mẫu, và chừng đó là đủ; Chúa Giê su dạy ta đặt tình yêu và lòng nhân từ hơn là lễ tế; và Chúa Giê su là đối tượng của nhân đức Mến Chúa - yêu người.

Ngươi phải yêu mến Đức Chúa (Yahweh, Gia- vê), Thiên Chúa ngươi. Dân Do Thái đã phải chật vật đấu tranh để trung thành với Đức Chúa, là Chúa của các tổ phụ, là Đấng đã đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập, đã ký kết giao ước Sinai, đã yêu thương và bảo bọc dân qua dòng lịch sử của họ. Nhiều khi họ thấy Chúa ở quá xa, hoặc Chúa đã bỏ rơi họ… và họ thờ thêm các thần của dân ngoại, và mỗi lần như thế thì Thiên Chúa nổi giận vì Ngài là Đấng hay ghen. Chúa Giê su đã làm gương cho ta về đức thờ phượng: Ngài đến để chu toàn ý Cha và chỉ thờ phượng một mình Chúa.

Hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Đây là một câu văn khá hay, nhưng chúng ta không dừng lại ở văn chương mà ở ý nghĩa: dành mọi sự cho Thiên Chúa. Thực tế là chúng ta hay chọn thái độ nửa vời: vẫn tuyên xưng Chúa là Chúa tể vũ trụ, là Đấng đã yêu thương chịu chết cho mình và sau khi chết ta sẽ được sống với Ngài muôn đời, thế nhưng lòng ta vẫn chạy theo danh vọng, tiền bạc và lạc thú trần gian. Chúng ta nhớ lại bộ phim Tây Du Ký: trong con người Đường Tăng (mỗi chúng ta) vẫn có Tôn Ngộ Không (lý trí, sự thông minh), Trư Bát Giới (đam mê xác thịt, tình cảm), Sa tăng (người hỗ trợ, trung thành và ôn hòa), và Bạch long mã (thân xác).  Chúa Giê su đã yêu đến chết, yêu hết lòng-hết linh hồn và hết trí khôn; Chúa vẫn bị cám dỗ đi con đường tắt, xuống khỏi thập giá… nhưng vì tình yêu, Chúa đã yêu đến cùng và hoàn tất ý định cứu chuộc của Cha giao phó.



Hình ảnh của người Sa ma ri nhân hậu chính là hình ảnh của Chúa Giê su. Luật Do Thái cắt nghĩa người đồng chủng mới là người thân cận, nhưng qua dụ ngôn thì Chúa Giê su giúp ta hiểu: mọi người là anh em tôi vì cùng là con một Cha trên trời, và Chúa đã chết để liên kết mọi dân tộc thành những chi thể của một thân thể duy nhất là Giáo hội. Người Sa ma ri đã chạnh lòng thương người bị nạn, đã dừng lại săn sóc bất chấp nguy hiểm, tốn kém và phiền phức: Chúa Giê su đã yêu nhân loại đến cùng và còn mãi yêu những tâm hồn tìm đến nương ẩn bên Ngài.

Hãy kính thờ Chúa hết lòng, và hãy yêu tha nhân vì Chúa hiện diện nơi họ. Mến Chúa yêu người hòa quyện vào nhau như hai mặt của một đồng tiền của nhân đức thờ phượng là vậy.

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2025

Pha trộn

 



Sách Sáng Thế nói cho ta biết Thiên Chúa chủ động đưa dân Israel sang Ai Cập, ở đó họ sẽ phát triển thành một dân lớn, và rồi sẽ đến ngày Thiên Chúa đưa họ trở về lại đất Ca na an (St 46,49,50). Chúng ta tự hỏi: Thiên Chúa có muôn ngàn cách, tại sao lại để dân Do Thái bị khổ sở ở đất Ai Cập?

Thưa, đó là một mầu nhiệm: con người không bao giờ hiểu được tư tưởng và cách hành động của Thiên Chúa, chúng ta chỉ đoán được phần nào thôi, và khi diện đối diện với Ngài (sau cái chết) chúng ta mới hiểu được Chúa và hiểu thấu những điều kỳ diệu Chúa đã làm, và sự ngạc nhiên đó càng làm cho chúng ta yêu mến Chúa không cùng. Câu chuyện dân Do Thái sinh sống một thời gian ở Ai cập có một mục đích là họ trở nên chất xúc tác để Danh Chúa được cả sáng. Chúng ta cũng có thể nhìn thấy bài học nầy trong những biến cố lịch sử của dân tộc Việt Nam: biến cố 1954 đã tạo nên một sự pha trộn giữa hai miền Nam Bắc, biến cố 1975 có thể được nhìn như một bước ngoặt lịch sử cho Giáo hội 2 miền (miền Bắc được hồi sinh, miền Nam có cơ hội nhìn lại tình trạng thần quyền lẫn lộn thế quyền, những người Việt kiều trở nên men cho xã hội Tây phương, những vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên đã trở thành những Giáo xứ rất sinh động).



Tin Mừng Gioan kể 2 câu chuyện nói về việc để danh Chúa được tôn vinh. Câu chuyện thứ nhất kể về anh mù từ thuở mới sinh, Chúa nói: không phải do tội của anh, cũng không phải do tội cha mẹ, mà chỉ để danh Chúa được tôn vinh nơi anh (Ga 9, 3). Câu chuyện thứ hai là anh Lazaro chết 4 ngày được sống lại, anh là người bạn thân của Chúa – Chúa được báo tin và ở rất gần, vậy mà anh ta phải nằm trong mộ, lý do ? – Chúa nói: “Thầy mừng là đã không ở đó, để các con tin” (Ga 11, 15). Chúng ta khá ngạc nhiên khi thấy dân Do Thái bị làm nô lệ khổ cực suốt mấy chục năm, anh mù bị khổ mấy chục năm và anh La za rô cùng gia đình phải trải qua sự thất vọng tột cùng… là để con người nhận ra vinh quang Thiên Chúa. Xem ra như vậy thì ‘để danh Chúa được nhận biết’ là một lý do cao cả - trổi vượt lên mọi điều khác. Châm ngôn sống của Dòng Tên (Dòng Chúa Giêsu) là "Ad maiorem Dei gloriam" trong tiếng Latin, có nghĩa là "Để vinh danh Chúa Hơn" hoặc "Để Thiên Chúa được vinh hiển hơn"Cụm từ này được sử dụng rất nhiều bởi Thánh Ignatius Loyola, người sáng lập Dòng Tên, và đã trở thành phương châm sống của các tu sĩ Dòng Tên. Họ thấm nhuần châm ngôn này và coi đó là một trong những mục tiêu chính trong đời sống dâng hiến của mình, hướng dẫn mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của họ (Internet).

Xin Chúa cho con nhìn ra kế hoạch của Chúa khi con được đặt trong đất nước, vùng miền và xứ đạo con đang sống: để góp phần mình vào việc làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Xin đừng để con trở nên vô dụng, nhưng là một chiến sỹ của nước trời, như lòng Chúa mong ước. Amen.

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2025

Sứ mạng

 



Bài trích sách Sáng Thế nhắc đến nhân vật Giuse, tể tướng Ai Cập, là một trong 12 người con ông Gia cop. Ông Giu se đã sớm nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa, nên lòng ông không hề giận ghét và có ý định trả thù các anh em vì đã cạn tình ráo máng với mình, ông chỉ thử thách anh em để giúp họ có lòng sám hối thật sự vì những hành vi gian ác xưa kia. Giuse đáp rằng: “Anh em đừng sợ! Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao? Các anh đã lo nghĩ sự dữ cho tôi, nhưng Thiên Chúa đã đổi nó ra sự lành để tôi được vinh hiển như anh em thấy hôm nay và để cứu sống nhiều dân tộc (St 50,20).

Câu chuyện ông Giuse của Cựu Ước là hình ảnh của chính Chúa Giê su, một người cũng bị bán và bị giết - tưởng chừng như một thất bại, nhưng rồi Người đã phục sinh: cái chết tự hiến của Người đã trở nên giá chuộc cho nhân loại, viên đá người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường – xây nên tòa nhà Giáo hội và của thành thánh Giê ru sa lem trên trời. Câu chuyện Chúa gọi các tông đồ cũng là một phác họa cho kế hoạch Thiên Chúa thường dùng: Chúa gọi những người thuyền chài ít học và thu thuế để làm nền móng cho Hội Thánh, và chính ơn Chúa đã hoạt động trong lịch sử để Giáo hội đó trường tồn cho đến ngày tận thế.

Bài học lịch sử đó vẫn là lộ trình của từng người chúng ta: bàn tay Chúa vẫn dìu dắt cuộc đời từng người chúng ta, mỗi người có một sứ mạng khi được sinh ra và đặt để trong môi trường cụ thể mình đang sống, chỉ có điều là chúng ta thường không nhận ra sứ mạng và lãng quên những việc kỳ diệu Chúa làm cho mình. Đức Phan xi cô nói: “Ở nguồn gốc của việc làm một Ki tô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định”(GE 7).

Có những đứa con thưa chuyện với cha mẹ: “con không hiểu tại sao mình phải sống?”. Sở dĩ người ta đặt câu hỏi đó là vì đã quên rằng mình có một sứ mạng: làm sáng danh Chúa, nói cho người khác biết tình thương của Chúa dành cho nhân loại và cho từng người. Người Ki tô hữu dễ quên sứ mạng của mình khi sống chung đụng với dân ngoại: họ chỉ có những chỉ tiêu ngắn hạn như nuôi dạy con cái, có nghề nghiệp ổn định, lo liệu gia đình cho con, hưởng thụ cuộc sống; họ chỉ lo sống sao cho người khác chấp nhận mình và không ai ức hiếp được mình, thế thôi. Chúa Giê su nói đến sự vô dụng của người Ki tô hữu được ví như muối bị lạt: khi họ sống mà quên mất sứ mạng của mình, để rồi chỉ lo những chuyện vụn vặt như cơm ăn áo mặc, tích góp tiền bạc, danh vọng và thú vui… tất cả sẽ qua đi nhanh chóng khi ta già, bệnh và chết. Chỉ có một điều tồn tại sau khi ta chết là những thứ mình đã trao ban và hiến dâng cho Chúa và anh em.



“Nước Trời đã đến gần” luôn là câu cửa miệng của Chúa Giê su khi Người sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Con người xưa cũng như chúng ta hôm nay luôn xem Tin Mừng như một giáo lý cao siêu và tốt đẹp, nhưng cứ từ từ áp dụng – còn bây giờ cứ vui hưởng cuộc sống đã. Não trạng như vậy thì Tin Mừng chỉ là một phạm trù luân lý, nhưng đúng hơn Tin Mừng phải là một cuộc gặp gỡ - một biến cố đổi đời – một viên ngọc quý khiến ta vui mừng đánh đổi tất cả để bước theo Giê su.

Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2025

Truyền giáo

 



Có lẽ đây là một chủ đề nhức nhối của Giáo hội hoàn vũ và của từng người Ki tô hữu, vì khi lãnh nhận bí tích rửa tội mỗi người được trở thành con cái Thiên Chúa với 3 chức vụ: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Chúng ta ôn lại 3 chức vụ này, thái độ của người được sai và mệnh lệnh phải nói.

 Ngôn sứ là người được sai đi để nói lời của Thiên Chúa, phổ biến đạo lý, sống điều mình tin, mạnh dạn tỏ ra mình là người có đạo. Tư tế là dâng của lễ lên Thiên Chúa, dâng mình làm của lễ sống động và trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần. Vương giả là vua – cai trị và phục vụ: thống trị nết xấu nơi bản thân, tạo một môi trường lành mạnh và thuần khiết thấm nhuần giáo lý Ki tô, phục vụ trong khiêm tốn và vô vị lợi. Người có đạo lâu năm và cư trú trong một xứ đạo toàn tòng thường dễ quên những phẩm chất của mình: không học hỏi thêm về giáo lý – dù bây giờ có rất nhiều cách để tích lũy và tìm hiểu giáo lý một cách cặn kẽ như các trang mạng, youtube, Kinh Thánh 100 tuần của Đức Cha Khảm… đã vô tri thì bất mộ, mà không yêu mến Giáo hội thì sẽ dẫn đến một thái độ thụ động trong đời sống đạo và việc truyền giáo.

Khi nói về đồng lúa chín vàng, Chúa truyền 2 điều: Hãy xin và hãy ra đi. Thực trạng là thỉnh thoảng chúng ta có xin và đóng góp một ít tiền, còn việc ra đi thì dành cho các nhà truyền giáo – các cha và các sơ. Linh mục Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự) có đưa ra một thống kê về con số tân tòng rất đau lòng: Mỗi năm, tại Việt Nam, số tân tòng (người lớn được rửa tội) khoảng 70.000, trong đó khoảng 40.000 là vì hôn phối, số còn lại rất khiêm tốn, không đủ chia cho các linh mục và tu sĩ mỗi vị/một người (chỉ ghi lại theo trí nhớ). Điều Chúa muốn là mỗi Ki tô hữu hãy ra đi đến vùng nước sâu, ra đi khỏi bản thân mình – khỏi giáo xứ mình để làm một điều gì đó cho Chúa. Chuyện kể về chân phước Charles De Foulcaud (1858 -1916), thời trẻ ngài đã chạy theo danh vọng trong binh nghiệp và mất đức tin, một hôm đứa cháu nhỏ hỏi ngài: “Cậu đã làm gì cho Chúa Giê su chưa?” , ngài đã suy nghĩ nhiều về câu nói đó, đã được ơn hoán cải và đi truyền giáo ở Phi Châu, lập nên dòng Tiểu đệ và Tiểu muội. Chúng ta thường an phận với những gì mình có, thường đưa ra nhiều lý luận cản trở tri thức và hoạt động cho Giáo hội như: biết nhiều khổ nhiều, biết nhiều tội nhiều, mình ít học, mình già rồi không học được nữa… Hãy nhìn xem các xã hội phương tây, họ học mãi và đầu óc họ như đóa hoa hướng dương luôn mở rộng với những kiến thức bổ ích, còn người VN mình cứ nhậu và ngồi chém gió, kèn cựa nhau và ganh tị nhau từng tiếng gáy, mãi bước theo những lối mòn của tập tục.



Chúa truyền dạy: đừng mang bị, đừng mặc hai áo, không đi dép, đừng đi hết nhà này đến nhà khác. Chúng ta dừng lại ở cái bị: bị là để đựng những thứ cần thiết như tiền bạc, muốn nói đến thái độ thu tích (vụ lợi) và an toàn. Trong sứ điệp truyền giáo, Đức Phan xi cô nói với ta: Dù công việc truyền giáo là công việc khó khăn, nhưng những người dấn thân truyền giáo đừng quá tự hào vì những đóng góp được xem như anh hùng của mình, vì sáng kiến và sức mạnh của truyền giáo là từ Thiên Chúa và của Thiên Chúa. Tâm lý bình thường, ta dễ làm việc vì lợi nhuận, nên việc phục vụ vô vị lợi phải được tập luyện. Bạn không thích mất thời giờ, công sức mà không có gì bỏ vào trong bị - đưa về cho gia đình; nhưng hãy nhớ: phục vụ đem lại niềm vui, cho thì có phúc hơn là nhận, hãy vui mừng vì phần thưởng trên trời Chúa dành cho người đầy tớ trung thành.

Hãy nói: bình an cho nhà này, triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Hai sứ điệp này liên hệ trực tiếp với nhau: sự bình an là có Chúa hiện diện. Ta dễ nhận ra có những vị tu sĩ rất bình an: họ thanh thản với nhịp sống của tu viện và thời cuộc, dường như họ tránh được những tham sân si, và sự bình an toát ra nơi diện mạo, lời nói, bước đi và nhất là nơi sự tuân phục – khiêm tốn. Ta không thể trao ban sự bình an khi lòng ta không bình an. Người Ki tô hữu bình an vì biết rõ mình từ đâu tới, con đường mình đang đi và nơi mình sẽ đến; họ bình an vì biết Chúa ở với mình, là người cha dũng mạnh – đầy yêu thương và không bao giờ bỏ rơi mình, dù trong hoàn cảnh nào – mãi cho đến ngày tận thế.