Sách Sáng Thế kể lại việc ‘sau 40 đêm ngày tiếp
xúc với Thiên Chúa trên núi Si-nai để ghi lại Thập Điều, ông Moi sen xuống khỏi
núi, không ai dám đến gần ông vì khuôn mặt ông sáng láng – khiến họ chói mắt,
hiện tượng này còn kéo dài một thời gian nên ông thường dùng khăn che mặt lại
và khi đàm đạo với Chúa nơi Nhà Xếp thì ông cất khăn đi’ (Xh 34, 29-35). Điều
này đặt ra cho chúng ta một câu hỏi tự vấn: ‘Mỗi lần đến với Chúa, tôi có được
sáng láng hơn một chút không, cuộc sống của tôi có thay đổi tốt hơn không?
Sách Xuất Hành kể lại Thập giới được khắc ghi 2 lần. Lần đầu
là hai tấm bia Chứng Ước – viết cả hai mặt, được chính Thiên Chúa khắc chữ trên
đá (Xh 32, 15-34), vừa xuống khỏi núi –chứng kiến dân thờ con bò vàng nên ông
Moi sen ném bể cả hai bia đá, thời gian ông Moi sen ở trên núi khá lâu, nhưng
khuôn mặt ông chưa biến đổi. Lần hai, ông Moi sen lưu lại trên núi Si nai 40 đêm
ngày và ông ghi những lời Chúa phán vào hai bia đá, khi ông xuống núi –dân
chúng lẩn tránh ông vì da mặt ông sáng láng mà ông không hay biết. Có thể nói
việc khuôn mặt ông rực sáng là một phép lạ Chúa làm để dân chúng thêm lòng kính
trọng vào người Chúa chọn, nhưng đây cũng là một biểu tượng: khi ông có một sự
tiếp xúc thân mật với Thiên Chúa như một người bạn, nội tâm ông được biến đổi
nên giống Chúa, thì diện mạo ông cũng đổi khác. Điều này nhắc nhở ta: khi ta
thường xuyên sống cầu nguyện, siêng năng tham dự bí tích Thánh Thể, sống theo Lời
Chúa dạy, thực thi bác ái …thì cách cư xử của ta lan tỏa một sự thánh thiện nào
đó – như câu ngạn ngữ: bàn tay tặng hoa hồng thường lưu lại hương thơm. Sách TĐCV kể lại: chính tại Antiokia, lần đầu tiên xuất hiện danh từ 'Ki tô hữu', có thể hiểu từ này 2 cách: có Chúa Ki tô trong mình (Chúa Ki tô sống trong tôi), và có mối liên hệ thân tình như bạn hữu Chúa Ki tô.
Sự sáng láng của khuôn mặt ông Moi sen là do ông
được tiếp xúc lâu ngày với Chúa, điều này nhắc nhở ta về sự thánh thiện của con
người là do sự gần gũi với Thiên Chúa là Đấng Thánh. AI định nghĩa sự thánh thiện
như sau: “Sự thánh thiện trong
Kitô giáo bắt nguồn từ Thiên Chúa và được thể hiện qua đời sống noi gương
Chúa Kitô, kết hợp với Bí tích Thánh Thể, và sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nó
không chỉ là sự tinh sạch về đạo đức mà còn là sự hoàn thiện trong mọi khía cạnh
của đời sống, hướng tới sự viên mãn trong Chúa”. Chúa
Giê su đã khẳng định: “Thầy là đường là sự thật và là sự sống, không ai đến được
với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6).
Chúng ta không mong chờ việc tiếp xúc với Chúa mang lại sự
sáng láng của khuôn mặt cho bằng sự trong sáng của tâm hồn. Câu đầu tiên của
tông huấn Niềm Vui Tin Mừng viết: “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và
toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giê su”. Đúng rồi, tâm hồn những
ai tìm Chúa phải tràn ngập niềm vui trong Chúa, họ biết mình đón nhận mọi sự từ
Chúa, bước đi trong Chúa và chỉ có Chúa là đủ. Thế gian dễ buồn rầu và thất vọng
vì họ theo đuổi những thú vui phù phiếm, danh vọng hão huyền, sự tự mãn và tham
lam… là những thứ rất dễ đổi thay và con người phải buông bỏ khi cái chết đến.
ĐGH Bê nê dic tô 16 có một câu rất nổi tiếng: “Ở nguồn gốc của việc làm một Ki
tô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một
cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân
trời mới và một hướng đi quyết định”.
Vấn đề là chúng ta có thường xuyên thực hành 4 thói quen mà
Giáo hội tiên khởi đã sống không?- chuyên cần cầu nguyện, siêng năng tham dự Lễ
Bẻ Bánh, lắng nghe Lời Chúa được dạy bởi các Tông đồ, hiệp thông huynh đệ. Có
thể nói: một người siêng năng đến nhà thờ cầu nguyện là dấu hiệu đáng mừng, vì ẩn
hiện một đức tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa! Còn người vắng mặt khỏi cộng đoàn, chỉ
đi lễ chúa nhật thường có nhiều lý do: đi lễ vì sợ tội, sức khỏe thể lý và sức
khỏe tâm linh không tốt, bất mãn với ai đó hoặc mất lòng tin vào Chúa.
Sự thánh thiện của Ki tô giáo bắt nguồn từ sự tiếp xúc với
Thiên Chúa. Qua bí tích Rửa Tội, chúng ta trở thành một tạo vật mới, tham dự
vào sự sống của Đức Ki tô, trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần. Tuy vậy, bí tích rửa
tội không miễn trừ cho chúng ta những cơn cám dỗ phạm tội, giống như việc dân
Do Thái ra khỏi kiếp nô lệ Ai Cập: Việc đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai cập thì
chỉ cần một thời gian rất ngắn, nhưng để lấy ách nô lệ ra khỏi tâm hồn dân Do
Thái thì Thiên Chúa phải mất một thời gian dài. Bởi đó, luôn cần đến bí tích
Hòa giải. Có thể nói: bí tích Thánh Thể và bí tích hòa giải là thước đo sức khỏe
tâm hồn. Để được Chúa biến đổi tâm hồn nên sáng láng, mỗi Ki tô hữu phải duy
trì sự liên lạc thân tình với Chúa Giê su. Nhà tu đức dạy: “Buổi sáng, ai không gặp
Chúa trên núi cao – thì suốt ngày khó gặp Chúa nơi đồng bằng”.