Sự kiện Chúa Giê su chịu tử nạn và
Phục Sinh nằm ở trung tâm của niềm tin Ki tô giáo: ai tin thì được cứu rỗi, ai
không tin thì không được hưởng ơn cứu độ. Trong lịch sử 2000 năm nay, không thiếu
những kẻ không tin vào Đức Giê su là Thiên Chúa thật và là người thật, dẫn đến
việc họ không hiểu đúng cái chết chuộc tội của Con Thiên Chúa; và càng nhiều
người không chấp nhận sự sống lại của Chúa Giê su, dẫn đến cái chết trầm luân
vì sự cứng lòng: họ được ví như người chết khát bên đập nước.
Trong mùa Phục Sinh, chúng ta đào
sâu đến sự kiện Chúa Giê su sống lại. Hai sự kiện được kể là bằng chứng phục
sinh là ngôi mộ trống và việc làm chứng của những người đã được gặp Chúa (trực
tiếp và trong đức tin). Cả hai sự kiện đều khó tin và khó xảy ra nếu không có một
quyền lực từ trên cao. Khi Thánh Phaolô đến thành Athena, ở đó có bàn thờ kính ‘Thần
vô danh’, ngài giảng cho họ về Đấng tạo dựng trời đất, đã sai Con mình đến trần
gian để mạc khải những mầu nhiệm nước trời, đã chết để chuộc tội, và đã sống lại…
Nghe đến việc người chết sống lại thì họ lắc đầu cười nhạo và rút lui; điều đó
chứng tỏ rằng: vấn đề Chúa Giê su sống lại rất khó tin và khó chấp nhận cho người
mọi thời, kể cả hôm nay. Trong những bài giảng đầu tiên của Thánh Phê rô cho
người Do Thái, ngài đã nêu bật vai trò và vị trí của Chúa Giê su: Thiên Chúa đã
tôn vinh Đức Giê su làm Chúa và là Đấng Ki tô, và ở dưới vòm trời này không có
Danh nào khác mang lại ơn cứu độ.
Trong tuần bát nhật vừa qua, chúng
ta được nghe khá đầy đủ những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh. Có một dàn bài tổng
quát cho những lần hiện ra: thân xác phục sinh của Chúa không lệ thuộc vào
không gian, Chúa mang nhiều dáng vẻ khác nhau nên các môn đệ không nhận ra
ngay, có lúc tưởng là thấy ma – chỉ khi Chúa tỏ ra một dấu chỉ nào đó thì họ mới
nhận ra; tuy thấy Chúa rồi nhưng họ vẫn ở lại trong sự sợ hãi; Chúa Giê su thổi
hơi và ban Thánh Thần cho họ và sai họ ra đi trở thành nhân chứng của Chúa Phục sinh.
Tuy vậy, dường như hoạt động Thánh
Thần chưa mãnh liệt – phải đợi đến lễ Ngũ Tuần thì Giáo hội mới thực sự hồi
sinh: các nhân chứng mạnh dạn làm chứng, những ơn chữa lành – nói tiếng lạ - những
mẻ cá 5.000 -7.000 linh hồn chỉ trong một ngày. Thời đại chúng ta đang sống được
xem là là thời đại của Chúa Thánh Thần, nhưng có người lại nói thời đại này là
thời đại hậu Ki tô giáo, có nghĩa là đạo Chúa đã lỗi thời và đang giẫy chết.
Nhiều khi chúng ta cũng có cảm tưởng rằng những dấu lạ và những ơn chữa lành
không mấy khi xảy ra nữa, nhân loại chìm ngập trong hận thù, đau khổ và chiến
tranh, sự ích kỷ và lối sống hưởng thụ dường như đè bẹp những giáo huấn yêu
thương bác ái của Tin Mừng, người xấu nhiều hơn người tốt. Người có cái nhìn bi
quan thì thích ở lại trong sự buồn thảm của chiều thứ 6 tử nạn hơn là bước đi
trong ánh sáng của Chúa Phục sinh.
Tình trạng 'lúa và cỏ lùng chung sống cho tới mùa gặt' nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, để niềm tin của mỗi người được trui luyện. Ngay trong ví dụ lúa và cỏ lùng, chúng ta nhận ra sự lạc quan của Thiên Chúa: dù có những hạt rơi trên đá sỏi, bên vệ đường, trong gai góc… bị thất bại và lãng phí, tuy nhiên vẫn có những hạt rơi vào đất tốt và trổ sinh hoa trái dồi dào. Mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa cũng diễn ra như vậy: việc chọn người cộng tác, việc Chúa rao giảng trong thời gian quá ngắn và thành quả chẳng bao nhiêu, cái chết và phục sinh còn nhiều tranh cãi thì Chúa lại rời bỏ địa cầu để lên trời. Nếu một công trình nhân loại mà tổ chức như vậy thì chỉ có thất bại, nhưng Cứu Chuộc là công trình của Chúa, Giáo hội là thân mình của Chúa và sức mạnh thực sự của cánh đồng truyền giáo là Chúa Thánh Thần. Trải qua biết bao thăng trầm và bắt bớ trong suốt lịch sử 2000 năm nay, Giáo hội vẫn trường tồn dù trong tay chẳng có sư đoàn bộ binh nào cả, và Giáo hội đó sẽ muôn đời kiên trung, như lời xác tín của chính Chúa. Cha Kim Long có viết bản nhạc ‘Chúa không lầm’: “Chúa không lầm khi Ngài đành hy sinh, để rồi nhìn con không đáp tình, vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: còn mang thân thể nặng nề, là còn luôn mê mải trần thế. Nhưng lòng Chúa quá bao la, dù cho bao phen con yếu đuối, thành tâm xin ăn năn sám hối, là Ngài lại thứ tha”.
Câu tuyên xưng đức tin của Thánh Tô ma đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Mục đích cao nhất của Giáo dục Kitô giáo là giúp cho người khác nhận ra sự thiện tối thượng của cuộc đời là Thiên Chúa: Một người dù có rất ít của cải nhưng có niềm tin vào Chúa thì được kể là người giàu có, vì có Chúa là có tất cả. Niềm vui của người Ki tô hữu bắt nguồn từ việc được làm con cái Chúa, được Chúa yêu thương, nâng đỡ và đồng hành trên con đường tiến về quê trời. Sức mạnh của Chúa Phục Sinh là có thật và mãnh liệt, giúp ta thắng vượt những nết xấu nơi bản thân, và đóng góp phần nhỏ nhoi của mình vào việc làm chứng nhân cho Chúa.