Danh sách Blog của Tôi

Thứ Ba, 15 tháng 7, 2025

Không sám hối

 



Chúa Giê su trách những thành đã chứng kiến nhiều phép lạ và nghe lời rao giảng của Chúa nhưng không chịu sám hối (Mt 11, 20). Điều này đáng cho ta suy nghĩ, nhiều khi chúng ta có phần nào đó giống dân Kho-radin, Bết xai da và Ca phác naum: đa số chúng ta được rửa tội từ tấm bé, đi nhà thờ đều đặn mấy chục năm trời… để rồi dễ quên vài điều: kẻ nhận nhiều thì phải trả nhiều, chúng ta có sống như lòng Chúa mong ước không, có cần phải sám hối nữa không – hay đã tốt và thánh đủ rồi?

Trong thời đại chúng ta, nền thần học được khuyến khích nói về lòng thương xót hơn là nói về sự nghiêm khắc và trừng phạt của Thiên Chúa. Ngày nay rất hiếm khi nghe các linh mục giảng về sự nổi giận của Thiên Chúa và những hình phạt lửa thiêu đốt trong hỏa ngục, ta ngại nhìn hình ảnh và nghe nói về ma quỷ. Nhưng trong Tin Mừng, chúng ta vẫn gặp những câu nói nghiêm khắc Chúa Giê su dành cho những người không sám hối – không thay đổi cuộc sống cho phù hợp với giáo lý Chúa dạy: Ta không biết các ngươi, hãy cút cho khỏi mặt Ta. Chúa Giê su vẫn thường nói đến sự thưởng phạt khi đến ngày tận cùng thế giới, và cách riêng, sự thưởng phạt sẽ đến sớm hơn cho từng người ngay sau cuộc phán xét riêng – khi ta đến trình diện Chúa.

Tôi còn nhớ lời một cha giáo dạy: “Nếu quá nhấn mạnh rằng Chúa là Đấng nhân từ và giàu lòng thương xót thì e rằng ở hỏa ngục rất vắng vẻ, nhưng nếu nhấn mạnh đến sự công thẳng của Thiên Chúa thì e rằng thiên đàng rất ít người cư ngụ”. Bởi đó, hãy luôn nhớ rằng: mình là khách lữ hành đang tiến về quê trời, hãy lo kiếm sống và thường xuyên biết hướng mắt nhìn về quê trời và chuyên tâm lo lắng cho phần rỗi linh hồn như là mục đích quan trọng nhất trong cuộc đời.

Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng, tin vào Đức Giê su – Đấng đã chết và phục sinh - để được ơn cứu độ’ là nội dung căn bản của giáo lý Ki tô giáo (Kerygma). Chúng ta thử tìm hiểu nguyên do tại sao mà dân những thành bị Chúa trách lại không sám hối?- Thứ nhất là họ đến với Chúa là để tìm dấu lạ, lợi lộc vật chất như chữa bệnh – được ăn no – thỏa tính tò mò; thứ hai là vì họ chưa đủ tin vào Chúa Giê su nên không dám đánh đổi đời mình để sống như Lời Chúa dạy; thứ ba là ơn Chúa chưa lôi kéo họ đủ và chưa có sự cộng tác của từng tâm hồn: lắng nghe, suy đi nghĩ lại, quỳ gối xuống để lãnh nhận ơn thánh. Sự cứng lòng của chúng ta cũng có phần nào đó giống họ: mình cũng theo Chúa giống như mọi người, cũng tầm tầm thường thường vậy thôi, không tích cực mà cũng không xấu xa như nhiều người khác, việc sám hối là dành cho những tội nhân ngoại hạng – còn tôi còn tốt chán. Hãy nhớ rằng: thiên đàng không có chỗ dành cho người không làm điều tốt, bởi đó việc sám hối là việc của những người bước ra khỏi sự tầm thường để sống tốt hơn như lòng Chúa mong ước, là việc làm của mỗi ngày. Cha xứ giáo xứ Vinh Hương thường nêu lên một ý lễ rất đặc biệt: xin ơn biết sống đẹp lòng Chúa.

Một trong những lý do để ta không sám hối là so sánh với người khác. Đừng quên rằng Thiên Chúa có một sự lãng phí lớn lao: Ngài tạo nên mỗi người không ai giống ai, trong 7 tỷ người trên hành tinh này không ai là bản sao (coppy) của người khác, mỗi người có những nén bạc và thánh giá khác nhau… nên việc so sánh cuộc hành trình của mình với một ai đó là không hợp lý và rất sai lầm: mỗi người có con đường phải đi, hãy so sánh mình với Thiên Chúa. Những lệnh truyền của Chúa như: Hãy đi rao giảng Tin Mừng, hãy nên trọn lành như Cha trên trời, hãy tha thứ cho anh em như Cha trên trời mình đã tha thứ, hãy vác thập giá mình mà theo Thầy, anh em hãy đón nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không… có một giá trị phổ quát (dành cho mọi người) nhưng cũng có những âm hưởng riêng tùy ân ban của Chúa dành cho từng tâm hồn. Tốt nhất là hãy sám hối, hãy so sánh mình với Chúa, ai ra sao mặc họ - vì mỗi người đều có con đường phải đi.



Không sám hối nói lên một sự xơ cứng tâm hồn, trong giáo dục người ta dùng tĩnh từ ‘cố chấp’. Trên hành trình sống đạo, Chúa muốn từng tâm hồn phải có một sự nhiệt thành: nóng thì nóng hẳn, lạnh thì lạnh hẳn, đừng hâm hâm dở dở… tại sao vậy? – thưa: người dốt biết mình dốt thì mới quyết tâm học, người biết mình chưa tốt thì mới quyết tâm trở nên tốt hơn. Chúa muốn ta trở nên như trẻ nhỏ: biết cậy dựa và tin tưởng tuyệt đối với cha mẹ, và quan trọng hơn là tình yêu con trẻ dành cho cha mẹ là một tình yêu tinh tuyền, tha thiết, không so đo tính toán: chỉ muốn làm vui lòng cha mẹ. Chúa mong bạn và tôi có một sự gắn bó mật thiết với Chúa, tiếng Chúa sẽ nói cho ta biết điều gì là tốt và điều gì là xấu, tình yêu Chúa sẽ thúc bách tâm hồn ta sám hối - thay đổi như lòng Chúa mong ước.

Thứ Bảy, 12 tháng 7, 2025

Luật trời

 



Ông Moi sen nói với dân Do Thái: những lời được ghi trong Kinh Thánh Cựu ước là những mạc khải của Thiên Chúa cho con người để họ được sống đời đời; Lời không ở nơi cao trên trời và xa bên kia biển, mà Lời được ghi trong sách và trong lòng người (Tl 30, 10-14). Trong những chuyện thần thoại và kiếm hiệp thường nói tới những ‘bí kíp’ là những công thức bí mật được cất giấu ở những nơi tuyệt mật – đem lại sức mạnh siêu việt cho ai sở hữu được nó.

Tin Mừng Gioan mở đầu: “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Lời ở với Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa” (Ga 1, 1), Và khi đến thời viên mãn Thiên Chúa đã sai Con Ngài đến để hoàn tất mạc khải và hiến thân mình làm giá chuộc cho muôn người: “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1, 20). Ngôi Lời đã làm người, nên Lời của Chúa Giê su được phán như Đấng có uy quyền, và Ngài đã tóm gọn lề luật trong một điều luật quan trọng nhất là: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu người thân cận như chính mình” (Lc 10, 27). Chúng ta nhận ra rằng: bí kíp này hoàn toàn là của Cựu Ước, không có một chữ nào của thời Tân Ước, vậy công trình nhập thể, rao giảng, chết và phục sinh của Chúa không có một ý nghĩa gì đáng kể sao? – Thưa, Chúa Giê su đến để thực hiện lời dạy đó, và chừng đó là đủ.

Ngươi phải yêu mến Đức Chúa (Yahweh, Gia- vê), Thiên Chúa ngươi. Dân Do Thái đã phải chật vật đấu tranh để trung thành với Đức Chúa, là Chúa của các tổ phụ, là Đấng đã đưa dân Israel ra khỏi Ai Cập, đã ký kết giao ước Sinai, đã yêu thương và bảo bọc dân qua dòng lịch sử của họ. Nhiều khi họ thấy Chúa ở quá xa, hoặc Chúa đã bỏ rơi họ… và họ thờ thêm các thần của dân ngoại, và mỗi lần như thế thì Thiên Chúa nổi giận vì Ngài là Đấng hay ghen. Chúa Giê su đã làm gương cho ta về đức thờ phượng: Ngài đến để chu toàn ý Cha và chỉ thờ phượng một mình Chúa.

Hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn. Đây là một câu văn khá hay, nhưng chúng ta không dừng lại ở văn chương mà ở ý nghĩa: dành mọi sự cho Thiên Chúa. Thực tế là chúng ta hay chọn thái độ nửa vời: vẫn tuyên xưng Chúa là Chúa tể vũ trụ, là Đấng đã yêu thương chịu chết cho mình và sau khi chết ta sẽ được sống với Ngài muôn đời, thế nhưng lòng ta vẫn chạy theo danh vọng, tiền bạc và lạc thú trần gian. Chúng ta nhớ lại bộ phim Tây Du Ký: trong con người Đường Tăng (mỗi chúng ta) vẫn có Tôn Ngộ Không (lý trí, sự thông minh), Trư Bát Giới (đam mê xác thịt, tình cảm), Sa tăng (người hỗ trợ, trung thành và ôn hòa), và Bạch long mã (thân xác).  Chúa Giê su đã yêu đến chết, yêu hết lòng-hết linh hồn và hết trí khôn; Chúa vẫn bị cám dỗ đi con đường tắt, xuống khỏi thập giá… nhưng vì tình yêu, Chúa đã yêu đến cùng và hoàn tất ý định cứu chuộc của Cha giao phó.



Hình ảnh của người Sa ma ri nhân hậu chính là hình ảnh của Chúa Giê su. Luật Do Thái cắt nghĩa người đồng chủng mới là người thân cận, nhưng qua dụ ngôn thì Chúa Giê su giúp ta hiểu: mọi người là anh em tôi vì cùng là con một Cha trên trời, và Chúa đã chết để liên kết mọi dân tộc thành những chi thể của một thân thể duy nhất là Giáo hội. Người Sa ma ri đã chạnh lòng thương người bị nạn, đã dừng lại săn sóc bất chấp nguy hiểm, tốn kém và phiền phức: Chúa Giê su đã yêu nhân loại đến cùng và còn mãi yêu những tâm hồn tìm đến nương ẩn bên Ngài.

Hãy kính thờ Chúa hết lòng, và hãy yêu tha nhân vì Chúa hiện diện nơi họ. Mến Chúa yêu người hòa quyện vào nhau như hai mặt của một đồng tiền của nhân đức thờ phượng là vậy.

Thứ Năm, 10 tháng 7, 2025

Pha trộn

 



Sách Sáng Thế nói cho ta biết Thiên Chúa chủ động đưa dân Israel sang Ai Cập, ở đó họ sẽ phát triển thành một dân lớn, và rồi sẽ đến ngày Thiên Chúa đưa họ trở về lại đất Ca na an (St 46,49,50). Chúng ta tự hỏi: Thiên Chúa có muôn ngàn cách, tại sao lại để dân Do Thái bị khổ sở ở đất Ai Cập?

Thưa, đó là một mầu nhiệm: con người không bao giờ hiểu được tư tưởng và cách hành động của Thiên Chúa, chúng ta chỉ đoán được phần nào thôi, và khi diện đối diện với Ngài (sau cái chết) chúng ta mới hiểu được Chúa và hiểu thấu những điều kỳ diệu Chúa đã làm, và sự ngạc nhiên đó càng làm cho chúng ta yêu mến Chúa không cùng. Câu chuyện dân Do Thái sinh sống một thời gian ở Ai cập có một mục đích là họ trở nên chất xúc tác để Danh Chúa được cả sáng. Chúng ta cũng có thể nhìn thấy bài học nầy trong những biến cố lịch sử của dân tộc Việt Nam: biến cố 1954 đã tạo nên một sự pha trộn giữa hai miền Nam Bắc, biến cố 1975 có thể được nhìn như một bước ngoặt lịch sử cho Giáo hội 2 miền (miền Bắc được hồi sinh, miền Nam có cơ hội nhìn lại tình trạng thần quyền lẫn lộn thế quyền, những người Việt kiều trở nên men cho xã hội Tây phương, những vùng kinh tế mới ở Tây Nguyên đã trở thành những Giáo xứ rất sinh động).



Tin Mừng Gioan kể 2 câu chuyện nói về việc để danh Chúa được tôn vinh. Câu chuyện thứ nhất kể về anh mù từ thuở mới sinh, Chúa nói: không phải do tội của anh, cũng không phải do tội cha mẹ, mà chỉ để danh Chúa được tôn vinh nơi anh (Ga 9, 3). Câu chuyện thứ hai là anh Lazaro chết 4 ngày được sống lại, anh là người bạn thân của Chúa – Chúa được báo tin và ở rất gần, vậy mà anh ta phải nằm trong mộ, lý do ? – Chúa nói: “Thầy mừng là đã không ở đó, để các con tin” (Ga 11, 15). Chúng ta khá ngạc nhiên khi thấy dân Do Thái bị làm nô lệ khổ cực suốt mấy chục năm, anh mù bị khổ mấy chục năm và anh La za rô cùng gia đình phải trải qua sự thất vọng tột cùng… là để con người nhận ra vinh quang Thiên Chúa. Xem ra như vậy thì ‘để danh Chúa được nhận biết’ là một lý do cao cả - trổi vượt lên mọi điều khác. Châm ngôn sống của Dòng Tên (Dòng Chúa Giêsu) là "Ad maiorem Dei gloriam" trong tiếng Latin, có nghĩa là "Để vinh danh Chúa Hơn" hoặc "Để Thiên Chúa được vinh hiển hơn"Cụm từ này được sử dụng rất nhiều bởi Thánh Ignatius Loyola, người sáng lập Dòng Tên, và đã trở thành phương châm sống của các tu sĩ Dòng Tên. Họ thấm nhuần châm ngôn này và coi đó là một trong những mục tiêu chính trong đời sống dâng hiến của mình, hướng dẫn mọi suy nghĩ, lời nói và hành động của họ (Internet).

Xin Chúa cho con nhìn ra kế hoạch của Chúa khi con được đặt trong đất nước, vùng miền và xứ đạo con đang sống: để góp phần mình vào việc làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Xin đừng để con trở nên vô dụng, nhưng là một chiến sỹ của nước trời, như lòng Chúa mong ước. Amen.

Thứ Ba, 8 tháng 7, 2025

Sứ mạng

 



Bài trích sách Sáng Thế nhắc đến nhân vật Giuse, tể tướng Ai Cập, là một trong 12 người con ông Gia cop. Ông Giu se đã sớm nhận ra kế hoạch của Thiên Chúa, nên lòng ông không hề giận ghét và có ý định trả thù các anh em vì đã cạn tình ráo máng với mình, ông chỉ thử thách anh em để giúp họ có lòng sám hối thật sự vì những hành vi gian ác xưa kia. Giuse đáp rằng: “Anh em đừng sợ! Nào chúng ta có thể chống lại thánh ý Chúa sao? Các anh đã lo nghĩ sự dữ cho tôi, nhưng Thiên Chúa đã đổi nó ra sự lành để tôi được vinh hiển như anh em thấy hôm nay và để cứu sống nhiều dân tộc (St 50,20).

Câu chuyện ông Giuse của Cựu Ước là hình ảnh của chính Chúa Giê su, một người cũng bị bán và bị giết - tưởng chừng như một thất bại, nhưng rồi Người đã phục sinh: cái chết tự hiến của Người đã trở nên giá chuộc cho nhân loại, viên đá người thợ xây loại bỏ đã trở nên tảng đá góc tường – xây nên tòa nhà Giáo hội và của thành thánh Giê ru sa lem trên trời. Câu chuyện Chúa gọi các tông đồ cũng là một phác họa cho kế hoạch Thiên Chúa thường dùng: Chúa gọi những người thuyền chài ít học và thu thuế để làm nền móng cho Hội Thánh, và chính ơn Chúa đã hoạt động trong lịch sử để Giáo hội đó trường tồn cho đến ngày tận thế.

Bài học lịch sử đó vẫn là lộ trình của từng người chúng ta: bàn tay Chúa vẫn dìu dắt cuộc đời từng người chúng ta, mỗi người có một sứ mạng khi được sinh ra và đặt để trong môi trường cụ thể mình đang sống, chỉ có điều là chúng ta thường không nhận ra sứ mạng và lãng quên những việc kỳ diệu Chúa làm cho mình. Đức Phan xi cô nói: “Ở nguồn gốc của việc làm một Ki tô hữu không phải là một lựa chọn luân lý hay một ý tưởng cao cả, nhưng là một cuộc gặp gỡ với một biến cố, một người, là điều mang đến cho cuộc sống một chân trời mới và một hướng đi quyết định”(GE 7).

Có những đứa con thưa chuyện với cha mẹ: “con không hiểu tại sao mình phải sống?”. Sở dĩ người ta đặt câu hỏi đó là vì đã quên rằng mình có một sứ mạng: làm sáng danh Chúa, nói cho người khác biết tình thương của Chúa dành cho nhân loại và cho từng người. Người Ki tô hữu dễ quên sứ mạng của mình khi sống chung đụng với dân ngoại: họ chỉ có những chỉ tiêu ngắn hạn như nuôi dạy con cái, có nghề nghiệp ổn định, lo liệu gia đình cho con, hưởng thụ cuộc sống; họ chỉ lo sống sao cho người khác chấp nhận mình và không ai ức hiếp được mình, thế thôi. Chúa Giê su nói đến sự vô dụng của người Ki tô hữu được ví như muối bị lạt: khi họ sống mà quên mất sứ mạng của mình, để rồi chỉ lo những chuyện vụn vặt như cơm ăn áo mặc, tích góp tiền bạc, danh vọng và thú vui… tất cả sẽ qua đi nhanh chóng khi ta già, bệnh và chết. Chỉ có một điều tồn tại sau khi ta chết là những thứ mình đã trao ban và hiến dâng cho Chúa và anh em.



“Nước Trời đã đến gần” luôn là câu cửa miệng của Chúa Giê su khi Người sai các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng. Con người xưa cũng như chúng ta hôm nay luôn xem Tin Mừng như một giáo lý cao siêu và tốt đẹp, nhưng cứ từ từ áp dụng – còn bây giờ cứ vui hưởng cuộc sống đã. Não trạng như vậy thì Tin Mừng chỉ là một phạm trù luân lý, nhưng đúng hơn Tin Mừng phải là một cuộc gặp gỡ - một biến cố đổi đời – một viên ngọc quý khiến ta vui mừng đánh đổi tất cả để bước theo Giê su.

Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2025

Truyền giáo

 



Có lẽ đây là một chủ đề nhức nhối của Giáo hội hoàn vũ và của từng người Ki tô hữu, vì khi lãnh nhận bí tích rửa tội mỗi người được trở thành con cái Thiên Chúa với 3 chức vụ: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Chúng ta ôn lại 3 chức vụ này, thái độ của người được sai và mệnh lệnh phải nói.

 Ngôn sứ là người được sai đi để nói lời của Thiên Chúa, phổ biến đạo lý, sống điều mình tin, mạnh dạn tỏ ra mình là người có đạo. Tư tế là dâng của lễ lên Thiên Chúa, dâng mình làm của lễ sống động và trở nên đền thờ Chúa Thánh Thần. Vương giả là vua – cai trị và phục vụ: thống trị nết xấu nơi bản thân, tạo một môi trường lành mạnh và thuần khiết thấm nhuần giáo lý Ki tô, phục vụ trong khiêm tốn và vô vị lợi. Người có đạo lâu năm và cư trú trong một xứ đạo toàn tòng thường dễ quên những phẩm chất của mình: không học hỏi thêm về giáo lý – dù bây giờ có rất nhiều cách để tích lũy và tìm hiểu giáo lý một cách cặn kẽ như các trang mạng, youtube, Kinh Thánh 100 tuần của Đức Cha Khảm… đã vô tri thì bất mộ, mà không yêu mến Giáo hội thì sẽ dẫn đến một thái độ thụ động trong đời sống đạo và việc truyền giáo.

Khi nói về đồng lúa chín vàng, Chúa truyền 2 điều: Hãy xin và hãy ra đi. Thực trạng là thỉnh thoảng chúng ta có xin và đóng góp một ít tiền, còn việc ra đi thì dành cho các nhà truyền giáo – các cha và các sơ. Linh mục Võ Tá Khánh (Trăng Thập Tự) có đưa ra một thống kê về con số tân tòng rất đau lòng: Mỗi năm, tại Việt Nam, số tân tòng (người lớn được rửa tội) khoảng 70.000, trong đó khoảng 40.000 là vì hôn phối, số còn lại rất khiêm tốn, không đủ chia cho các linh mục và tu sĩ mỗi vị/một người (chỉ ghi lại theo trí nhớ). Điều Chúa muốn là mỗi Ki tô hữu hãy ra đi đến vùng nước sâu, ra đi khỏi bản thân mình – khỏi giáo xứ mình để làm một điều gì đó cho Chúa. Chuyện kể về chân phước Charles De Foulcaud (1858 -1916), thời trẻ ngài đã chạy theo danh vọng trong binh nghiệp và mất đức tin, một hôm đứa cháu nhỏ hỏi ngài: “Cậu đã làm gì cho Chúa Giê su chưa?” , ngài đã suy nghĩ nhiều về câu nói đó, đã được ơn hoán cải và đi truyền giáo ở Phi Châu, lập nên dòng Tiểu đệ và Tiểu muội. Chúng ta thường an phận với những gì mình có, thường đưa ra nhiều lý luận cản trở tri thức và hoạt động cho Giáo hội như: biết nhiều khổ nhiều, biết nhiều tội nhiều, mình ít học, mình già rồi không học được nữa… Hãy nhìn xem các xã hội phương tây, họ học mãi và đầu óc họ như đóa hoa hướng dương luôn mở rộng với những kiến thức bổ ích, còn người VN mình cứ nhậu và ngồi chém gió, kèn cựa nhau và ganh tị nhau từng tiếng gáy, mãi bước theo những lối mòn của tập tục.



Chúa truyền dạy: đừng mang bị, đừng mặc hai áo, không đi dép, đừng đi hết nhà này đến nhà khác. Chúng ta dừng lại ở cái bị: bị là để đựng những thứ cần thiết như tiền bạc, muốn nói đến thái độ thu tích (vụ lợi) và an toàn. Trong sứ điệp truyền giáo, Đức Phan xi cô nói với ta: Dù công việc truyền giáo là công việc khó khăn, nhưng những người dấn thân truyền giáo đừng quá tự hào vì những đóng góp được xem như anh hùng của mình, vì sáng kiến và sức mạnh của truyền giáo là từ Thiên Chúa và của Thiên Chúa. Tâm lý bình thường, ta dễ làm việc vì lợi nhuận, nên việc phục vụ vô vị lợi phải được tập luyện. Bạn không thích mất thời giờ, công sức mà không có gì bỏ vào trong bị - đưa về cho gia đình; nhưng hãy nhớ: phục vụ đem lại niềm vui, cho thì có phúc hơn là nhận, hãy vui mừng vì phần thưởng trên trời Chúa dành cho người đầy tớ trung thành.

Hãy nói: bình an cho nhà này, triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Hai sứ điệp này liên hệ trực tiếp với nhau: sự bình an là có Chúa hiện diện. Ta dễ nhận ra có những vị tu sĩ rất bình an: họ thanh thản với nhịp sống của tu viện và thời cuộc, dường như họ tránh được những tham sân si, và sự bình an toát ra nơi diện mạo, lời nói, bước đi và nhất là nơi sự tuân phục – khiêm tốn. Ta không thể trao ban sự bình an khi lòng ta không bình an. Người Ki tô hữu bình an vì biết rõ mình từ đâu tới, con đường mình đang đi và nơi mình sẽ đến; họ bình an vì biết Chúa ở với mình, là người cha dũng mạnh – đầy yêu thương và không bao giờ bỏ rơi mình, dù trong hoàn cảnh nào – mãi cho đến ngày tận thế.

Thứ Năm, 3 tháng 7, 2025

Hưởng nhờ

 



Bài đọc Sáng Thế 19, 20-22 nói đến một chi tiết đáng cho chúng ta để ý, vì giúp cho chúng ta sống đạo tốt hơn: ông Lot đã xin sứ thần vào trú trong thành Xô-a để tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa – Chúa sắp mưa lửa xuống hai thành Sodoma và Gomora và các vùng lân cận. Có thể nói rằng: nhờ có ông Lot mà thành Xô-a được cứu thoát, điều này làm ta liên tưởng đến mầu nhiệm Các Thánh Thông Công: các phần tử trong Thân Thể mầu nhiệm Chúa Ki tô được hưởng nhờ công trạng của nhau. Sự hưởng nhờ lớn nhất là: chúng ta được cứu chuộc nhờ công trạng Chúa Ki tô mang lại: "nhờ Người mang thương tích mà chúng ta được chữa lành" (Is 53,5).

Dựa vào SGLHTCG từ số 946-962, chúng ta có thể kể đến những sự hiệp thông cụ thể như sau: Hiệp thông trong ơn Thánh: Giáo hội lữ hành, Giáo hội đau khổ và Giáo hội vinh quang có thể chuyển cầu cho nhau; hiệp thông công trạng: việc nhỏ nhất chúng ta làm vì đức mến đều sinh ích lợi cho mọi người, trái lại mọi tội lỗi đều làm tổn thương đến toàn thân thể. Mọi tội lỗi đều ‘mang tính xã hội’, gây ra những ‘hậu quả xã hội’. Cả những tội thầm kín vẫn làm thiệt hại Thân Thể Mầu Nhiệm Chúa Kitô; đó là chưa nói đến những tội công khai, vốn sẽ tác hại nghiêm trọng, gây tai tiếng và có thể dẫn người khác vào đường tội lỗi; thậm chí, mất đức tin. Địa vị càng cao, tàn phá của tội càng lớn!

Trong tác phẩm ‘Xúp cháo gà cho người Ki tô hữu’ có kể câu chuyện: Trong thời đệ nhị thế chiến, có một chiếc máy bay phe đồng minh (Mỹ) bị rơi ở Đức, viên phi công thoát nạn một cách thần kỳ. Mấy chục năm sau, tại Mỹ, trong một cuộc gặp gỡ tôn giáo, diễn giả kể lại câu chuyện trên, ông cho rằng: có ai đó đã cầu nguyện cho mình, đó là lý do mình mới thoát nạn một cách may mắn và thần kỳ như vậy; có một thính giả ngồi nghe, bà biết rõ thời gian và địa danh chiếc máy bay rơi và chính bà đã tha thiết cầu nguyện xin cho người phi công được thoát nạn, vì nếu bị bắt thì chắc chắn cái chết trong lò sát sinh đang đợi chờ anh.



Bạn có nghĩ được rằng: nhiều khi Chúa muốn ban ơn lành cho kẻ Ngài yêu thương, và nhờ họ mình cũng được hưởng nhờ không? Đức Phan xi cô nhắc nhở những người khỏe mạnh: hãy biết ơn những thành phần đau khổ của Hội Thánh, những người tàn tật, bệnh tật, đau khổ tinh thần và những người lành thánh, vì nhờ lời van xin tha thiết của họ mà ơn thánh tuôn đổ trên Giáo hội và trên địa cầu. Chúng ta thường tạ ơn Chúa, vì những ơn mình thấy được và cả những ơn mình không nhận ra là ơn; chúng ta tạ ơn người vì những người mình biết và cả những người âm thầm cầu nguyện cho mình mà mình không biết, vì thế câu 'xin Chúa trả công vô cùng cho kẻ làm phúc cho chúng con' không bao giờ thừa!

Câu nói cửa miệng ĐGH Phanxico là: xin hãy cầu nguyện cho cha. Để có thể nói câu này, người nói phải ý thức sự yếu đuối của bản thân và xác tín vào sự chuyển cầu cũng như tác động thông công của ơn thánh. Chúa muốn chúng ta chuyển cầu cho nhau, giữa những người sống, điều này khó vì tính ghen tị: trong thâm tâm ta không muốn kẻ khác được hơn mình về bình an – thành công… Còn việc chuyển cầu cho người đã khuất thì dễ hơn, nhưng chúng ta phải xin những người đã khuất cầu nguyện cho mình nữa, dựa vào SGLHTCG số 958: “Lời cầu nguyện của chúng ta cho họ không những có thể giúp đỡ họ, mà còn làm cho sự chuyển cầu của họ cho chúng ta nên hữu hiệu”.

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2025

MỘT LỜI CẢNH TỈNH CẦN THIẾT

 



 (Rev. Ron Rolheiser, OMI)

Một tu sĩ dòng Biển Đức chia sẻ câu chuyện này với tôi.  Trong những năm đầu đời tu, tu sĩ bị phẫn uất vì cần bất cứ gì cũng phải xin phép Đan viện phụ.  “Tôi nghĩ làm vậy thật ngốc.  Một người trưởng thành như tôi, muốn một cái áo mới cũng phải xin phép bề trên.  Tôi thấy mình như trẻ con vậy.”

 

Nhưng khi lớn thêm vài tuổi, cái nhìn của người tu sĩ khác đi. “Tôi không chắc lắm về mọi lý do, dù tôi chắc chắn chuyện này có liên quan đến ân sủng.  Nhưng đến một ngày, tôi thấy ‘chuyện cái gì cũng phải xin’ có một khôn ngoan sâu sắc.  Chúng ta chẳng sở hữu gì cả, chẳng có gì mặc định là của chúng ta cả.  Tất cả đều là ơn ban.  Nên về mặt lý thuyết, phải xin tất cả mọi thứ, chứ không lấy như thể chúng ta có quyền.  Chúng ta cần biết ơn Thiên Chúa và vũ trụ vì mọi sự đã được ban cho chúng ta.  Bây giờ khi tôi cần một cái gì đó cần xin phép, tôi không còn cảm thấy mình là con nít.  Thay vào đó, tôi cảm thấy mình hòa hợp thích đáng hơn với cách thức điều hành mọi sự trong vũ trụ theo ơn ban mà trong đó không một ai có quyền tối hậu trên cái gì.”

 

Điều mà tu sĩ này hiểu ra chính là nguyên tắc nền tảng cho mọi linh đạo, mọi luân lý, và mỗi một điều răn, cụ thể là tất cả mọi sự đến với chúng ta như một tặng vật, chứ chẳng có gì là của chúng ta.  Chúng ta nên biết ơn Thiên Chúa và vũ trụ vì cho chúng ta những gì chúng ta có, và chúng ta cẩn thận đừng đòi thêm như thể mình có quyền.

 

Nhưng điều này rất trái ngược với cái tôi bản năng và văn hóa của chúng ta.  Trong cả hai điều này có những tiếng nói mạnh mẽ bảo chúng ta nếu không thể lấy được điều mình muốn thì mình là kẻ yếu đuối, yếu đuối theo cả hai nghĩa.  Thứ nhất là tính cách yếu đuối, quá hèn nhát không dám giành lấy cuộc đời.  Thứ hai, là bị sự dè dặt của tôn giáo và luân lý làm cho yếu đuối, không thể giành lấy một cách thích đáng và sống cho thật trọn vẹn.  Những tiếng nói này bảo chúng ta phải lớn lên, vì trong chúng ta có quá nhiều thứ sợ hãi và ấu trĩ, vì chúng ta là đứa trẻ bị những thế lực mê tín giam giữ.

 

Chính bởi những tiếng nói như vậy mà ngày nay, trong một văn hóa tự nhận là Kitô hữu và luân lý, những nhân vật chính trị và xã hội lại hoàn toàn thật lòng tin, cho rằng sự cảm thông là sự yếu đuối của con người.

 

Chúng ta cần một lời cảnh tỉnh quan trọng.

 

Tiếng của Chúa Giêsu là phản đề hoàn toàn đối với những tiếng nói này.  Cảm thông là nhân đức gần như tối hậu của con người, là phản đề của sự yếu đuối.  Chúa Giêsu nhìn vào những gì là dứt khoát, hùng hổ và tích lũy trong xã hội chúng ta, cho dù chúng được ngưỡng mộ đến như thế nào, Ngài cũng sẽ nói rõ rằng đó không phải là ý nghĩa của việc đến bàn tiệc ở tâm điểm vương quốc Thiên Chúa.  Chúa Giêsu sẽ không có chung sự ngưỡng mộ của chúng ta dành cho những người giàu có và nổi tiếng vốn quá thường xuyên giành lấy, như thể họ có quyền, tài sản và địa vị quá mức của mình.  Khi nói rằng người giàu vào nước trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim, có lẽ Chúa Giêsu sẽ làm rõ hơn khi nói thêm: “Dĩ nhiên trừ khi người giàu giống như trẻ con, xin phép vũ trụ, cộng đoàn và Thiên Chúa khi muốn một chiếc áo mới!”


 

Khi tôi ở nhà tập, linh mục phụ trách tập viện đã cố gây cho chúng tôi ấn tượng về ý nghĩa của sự khó nghèo đời tu, ngài bảo chúng tôi viết mấy chữ la-tinh: ad usum (để bạn dùng) trong mỗi quyển sách được phát.  Dù quyển sách này được giao cho chúng tôi dùng riêng, nhưng chúng tôi không sở hữu nó.  Nó chỉ được để cho chúng tôi dùng, quyền sở hữu thì ở người nào đó khác.  Rồi chúng tôi được dạy, điều này cũng đúng với bất kỳ vật gì được giao cho chúng tôi dùng riêng, từ bàn chải đánh răng cho đến chiếc áo mặc trên người: chúng không thật sự là của chúng tôi, mà chỉ đơn thuần được giao cho chúng tôi dùng.

 

Một tập sinh thời đó cùng tôi, sau này đã rời dòng và bây giờ là bác sĩ, anh vẫn là bạn thân của tôi, anh chia sẻ với tôi, dù bây giờ là bác sĩ, anh vẫn viết mấy chữ ad usum trong mọi quyển sách của anh.  Lý luận của anh: “Tôi không ở dòng tu.  Tôi không có lời khấn khó nghèo, nhưng tôi thấy khi ở thế giới này, nguyên tắc linh mục dạy chúng tôi thật xác đáng không khác gì khi ở tập viện.  Chúng ta chẳng sở hữu gì hết.  Những quyển sách này không hẳn là của tôi.  Chúng được giao cho tôi, tạm thời, để tôi dùng.  Chẳng có gì hoàn toàn thuộc về bất kỳ ai.  Và tốt nhất là đừng bao giờ quên điều đó.”

 

Bất kể chúng ta giàu có, uy lực và trưởng thành đến thế nào, thì trong chuyện xin phép để mua một chiếc áo mới luôn có một điều gì đó thật lành mạnh.  Nó giữ chúng ta hòa hợp với sự thật rằng vũ trụ thuộc về tất cả mọi người, và tối hậu là thuộc về Thiên Chúa.  Mọi thứ đến với chúng ta đều là tặng vật, cho nên chúng ta đừng bao giờ mặc định xem cái gì là của mình, mà hãy mặc định xem là đã được ban cho!

 

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 

 

Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2025

Chuyển cầu

 



Bài trích sách Sáng Thế 16, 18-23 kể lại chuyện ông Abraham chuyển cầu cho dân 2 thành Sodom và Gomora, hầu giúp họ tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, vì tội lỗi của họ quá nhiều. Đây là một đoạn Kinh Thánh rất hay – giúp ta hiểu hơn về sự cầu nguyện cho người khác, gọi là sự chuyển cầu. Chúng ta dừng lại một vài từ được nói đến trong bản văn này.

Kêu thấu. Đức Chúa xuống xem những tiếng kêu than của những người khốn khổ đã thấu đến trời có đúng hay không. Chúng ta đã gặp cụm từ này từ những chương đầu của sách Sáng Thế khi máu của Abel cũng đã kêu thấu trời vì bị Cain giết. Thiên Chúa rất gần gũi với người khốn khổ không chốn tựa nương, những người nghèo và những kẻ bị loại trừ. Khi họ bị ức hiếp, vì không biết cậy dựa vào đâu khác, họ kêu đến trời và trời lắng nghe họ. Bởi đó, Kinh Thánh Cựu ước dạy rằng: đừng giữ tiền công của người nghèo đến ngày mai, đừng lấy áo choàng của người khác vì họ không có gì để đắp qua đêm, 7 năm thì có một năm ân xá tù nhân – tha nợ cho vay – đất nghỉ ngơi, quan tâm đến cô nhị quả phụ và khách ngoại kiều… Hãy học nơi Thiên Chúa sự nghỉ ngơi và lòng thương xót. Ngày hôm nay con người vẫn lên án những hành vi xâm lược, giết hại người vô tội, phá thai, buôn bán nô lệ, đánh cắp cơ phận người khác, án tử hình; còn trên bình diện cá nhân, đừng lừa tình, làm hại người nghèo, đừng làm mất danh dự kẻ khác và vu cáo… vì tiếng kêu của người đau khổ sẽ thấu đến trời cao và Chúa sẽ xem xét. Tôi còn nhớ một lời dạy: Nếu mình lấy một đồ vật của người nghèo, họ càng đau xót thì tội mình càng lớn.



Chuyển cầu. Ông Abraham, cha của kẻ tin, có một mối liên lạc thân tình với Thiên Chúa; thế nhưng chúng ta không thấy ông xin cho có vài đứa con như lời Chúa đã hứa được thành sự, dù đó là điều ông bà đau đáu trong lòng. Nhưng khi nghe biết Chúa sẽ trừng phạt hai thành tội lỗi thì ông liền mở miệng cầu xin, mục đích là chuyển cầu cho họ được tránh khỏi tai họa. Đáng tiếc là ông không dám đi quá giới hạn 10 người công chính, một phần ông sợ Thiên Chúa nổi giận, phần khác có lẽ ông không ngờ là trong thành có quá ít người công chính như vậy. Trong việc cầu nguyện, Chúa cũng muốn chúng ta chuyển cầu cho nhau: Lạy Cha chúng con, xin cho chúng con… Có câu chuyện kể về bàn tiệc thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau một điểm duy nhất: ở thiên đàng người ta quan tâm và giúp đỡ nhau – trái lại ở hỏa ngục thì ai nấy chỉ ích kỷ lo cho mình. Đừng nghĩ chết rồi mới có thiên đàng hỏa ngục, ngay từ đời này khi ta yêu thương và quan tâm nhau thì đã có thiên đàng rồi. Có câu chuyện kể về một vị tu sĩ rất đạo đức, đã nhiều lần thiên sứ đến muốn cất mạng ông để đưa ông về trời, nhưng ông cứ khất lần vì đang bận việc bổn phận và đang phục vụ cộng đoàn; thế rồi một hôm khác, lúc ông rảnh rỗi thì thiên sứ lại đến, ông xin sẵn sàng ra đi, nhưng thiên sứ mỉm cười hỏi lại: “Chứ bấy lâu nay ngài tưởng mình đang ở đâu?”. Mỗi người hãy là người chuyển cầu cho nhau, là người canh giữ phần rỗi của nhau, đó là bổn phận tự nhiên của những người con của Một Cha trên trời. Đặc biệt là các linh mục và người lãnh đạo cộng đoàn, người cha mẹ trong gia đình … là người chuyển cầu và canh giữ phần rỗi cho các thành viên mình chịu trách nhiệm.



Lời chuyển cầu của ông Abraham làm chúng ta liên tưởng đến lời khẩn nài của ông Moi sen khi dân chúng thờ con bò vàng: Xin Chúa thương xót, xin nhớ lại lời hứa của Chúa (cho mình trở thành cha nhiều dân tộc và nhiều dân tộc qua mình được chúc phúc/ sẽ bao bọc che chở dân Chúa chọn), nếu Chúa nổi giận trừng phạt thì không được đâu (người công chính bị giết lây/ dân ngoại sẽ chê cười khi Chúa đem dân vào sa mạc để tru diệt họ), chính sự kiên trì để nói khó với Chúa đã làm Thiên Chúa tươi nét mặt. Các nhà tu đức dạy rằng: cầu nguyện không làm cho Thiên Chúa thay đổi bằng những lý luận sắc bén, nhưng làm cho lòng người thay đổi, vì khi nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm cho dân và cho mình, mình sẽ tin cậy hơn và yêu mến Chúa hơn, và đó là những điều cần thiết để Thiên Chúa thực hiện ý Ngài.

 

 

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2025

Ơn thánh

 



“Bàn thạch Phê rô trường tồn thay, đồng trụ Phao lô trường tồn thay” (Hai người tiên phong) đã nói lên vai trò của hai vị tông đồ: Ngôi nhà Giáo hội được xây trên nền đá Phê rô và những trụ đồng vững chắc Phaolô là rường cột của tòa nhà đó. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta cùng chiêm ngắm công trình của ơn thánh, những phép lạ Chúa làm để biến đổi tâm hồn và cuộc đời của hai vị thánh này.

Một giai thoại kể rằng: Khi Chúa Giê su chuẩn bị về trời - mọi sự còn rất dở dang, một vị thiên sứ hỏi Chúa: Chúa có kế hoạch B và C gì nữa không? Chúa Giê su mỉm cười và nói: “Ta tin tưởng vào họ”. Giáo hội lúc đó chỉ vỏn vẹn khoảng vài trăm người, đa số là người thuộc giới bình dân ít học và mất hết tinh thần - nhút nhát sợ sệt người Do Thái; còn ông Saolê, một người thuộc giới Biệt Phái – vì lòng nhiệt thành đang ra sức tấn công những người thuộc giáo phái Giê su. Tuy vậy với ơn Chúa, hai vị tông đồ đã có những bước ngoặt để trở thành những người hoàn toàn thuộc về Đức Giê su Ki tô, dám liều mạng sống mình để làm chứng cho niềm tin của mình.

Một giai thoại được mô tả trong tác phẩm Quo Vadis (Thầy đi đâu) kể về Thánh Phê rô: Lúc ấy tông đồ Phê rô đang rao giảng Tin Mừng ở Roma, cơn bách hại dữ dội của hoàng đế Nê rô xảy ra, nhiều anh em khuyên ông Phê rô nên trốn sang thành khác để duy trì Hội Thánh, nhưng đang lúc ông đi ra khỏi thành thì gặp Chúa Giê su vác thập giá tiến vào thành, ông Phê rô hỏi “Quo vadis” và Chúa trả lời Thầy đi vào thành Ro ma để chịu chết một lần nữa… và thánh Phê rô đã quay trở lại thành Ro ma và chịu tử đạo để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Giê su là Con Thiên Chúa, đã chết và sống lại, là Đấng cứu độ duy nhất của trần gian.



Khi Chúa gọi ông Phê rô làm tông đồ, phép lạ mẻ cá lạ - kết quả của sự vâng lời Thầy Giê su - đã làm ông Phê rô thốt lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là người tội lỗi”. Chúa đã không loại bỏ ông mà còn phán: “Hãy theo Ta” và Phê rô đã bỏ nghề nghiệp – vợ con để làm môn đệ Chúa. Tuy vậy, ơn Chúa không biến đổi ngay con người mỏng dòn yếu tin thành một tông đồ gương mẫu, các ông còn chậm tin, còn tranh luận cao thấp, còn tự phụ vào sức riêng mình, còn sợ chết… Nhưng một mặt khác của đồng tiền, mặt sáng của ơn Thánh, chúng ta cũng kinh ngạc khi ông Phê rô tuyên tín: bỏ Ngài chúng con biết theo ai – chỉ có Thầy mới đem lại sự sống đời đời, “được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki tô bao nhiêu anh em hãy vui mừng bấy nhiêu để anh em được vui mừng hớn hở vì được chia sẻ vinh quang với Ngài” (1 Pr 4, 13). Chúng ta nhận ra rằng: hành trình theo Chúa, việc biến đổi thành một vị thánh, là một tiến trình bền bỉ của ơn thánh và sự nỗ lực của con người. Hãy học sự kiên nhẫn của Thiên Chúa để có sự nhẫn nại và rộng lượng với anh em.

Còn cuộc đời Thánh Phao lô thì quá nổi tiếng, việc hoán cải từ một người nhiệt thành bắt đạo – trong khoảnh khắc trở thành người rao giảng về Chúa Giê su không phải là quá trình của hoán cải và suy tư thần học mà là sự can thiệp trực tiếp của ơn Chúa, biến ông thành khí cụ của Tin Mừng. Ông Phaolo được Chúa trực tiếp mạc khải về giáo lý, Ngài lui vào sa mạc ( ở ẩn) khoảng vài tuần – liền sau đó Ngài rao giảng về Chúa Giê su một cách dạn dĩ và công khai, khoảng 3 năm sau ngài mới lên Giê ru sa lem để đối chiếu giáo lý mình dạy với ông Phê rô – trong dịp đó ngài còn gặp tông đồ Gia cô bê. Trong thư 2 Cr 11, 18… chúng ta được biết Thánh Phao lô bị tù lâu năm, 5 lần bị đánh 39 roi/lần, 3 lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá tưởng chết; 3 lần bị đắm tàu, một đêm một ngày bị lênh đênh biển khơi và biết bao nguy hiểm trên rừng trên biển, chịu nhiều thiếu thốn về thể xác và mối bận tâm về các giáo đoàn. Thánh nhân kể ra một chút cho ta biết (nói như người điên) còn trong thâm tâm, ngài chỉ tự hào về sự yếu đuối và về thập giá Đức Ki tô, vì biết rằng sức mạnh người tông đồ là ở nơi Chúa: vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh.

Mừng lễ 2 thánh Tông đồ, chúng ta ca tụng công trình kỳ diệu Chúa đã thực hiện nơi 2 vị tông đồ: xét theo bên ngoài thì các ngài cũng là những người tội lỗi và yếu đuối, nhưng được cộng tác vào việc rao giảng nước trời là một hồng ân: “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Trong Logo của năm thánh những người hành hương của hy vọng, có một dòng chữ nhỏ hơn và đôi khi chúng ta không để ý: “CÙNG NHAU LOAN BÁO TIN MỪNG”, câu nói này nói với từng người hãy nỗ lực và cộng tác với nhau làm cho Danh Chúa Gie su vang lên trong nhân loại. Điểm kết luận thứ hai: Giáo hội Công giáo là Giáo hội của Chúa Giê su, Chúa hứa rằng ‘sẽ vững bền’ như ngôi nhà được xây trên nền đá. Xin trích lời của nhà thần học Đức Karl Rahner: “Giáo hội là một bà mẹ nhăn nheo, xin đừng ai nói xấu Giáo hội, vì đó là Mẹ tôi”.

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

Chữa lành

 



Trong bài Tin Mừng thứ 7 tuần 12 TN (Mt 8,5-17), kể lại một loạt những phép lạ chữa lành của Chúa Giê su: Chúa phán một lời là người đầy tớ viên đại đội trưởng dù ở xa vẫn được chữa lành, đụng đến tay bà mẹ vợ của ông Phê rô và bà khỏi cơn sốt, chiều đến Chúa chữa lành những người bị quỷ ám và mọi kẻ ốm đau. Thế nhưng, phần kết của bài Tin Mừng lại nói một câu rất lạ: “Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia ‘Người mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta’.

Chúa dùng quyền năng của Thiên Chúa để xua trừ ma quỷ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của con người, điều đó đã được kể như một dấu hiệu của Đấng Thiên Sai, như một vị bác sĩ chữa trị cả bệnh thân xác và tâm hồn của con người. Vị bác sĩ dùng thuốc và tài năng để đẩy lui bệnh tật, thế là xong; nhưng nơi Chúa Giê su thì khác, Chúa gánh lấy các tật bệnh của ta và nhờ Ngài mang thương tích mà tất cả chúng ta được chữa lành. Điều này muốn nói lên điều gì?- Thưa: Chúa Giê su là Đấng Cứu Chuộc. Vì loài người đã phạm tội, mà tội mang đến án phạt và sự chết, Chúa Giê su là Adam mới đã gánh lấy những đớn đau nơi thân xác và khổ não trong tâm hồn để giao hòa loài người với Đấng Tạo Dựng và nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa, đồng thừa tự với Đức Ki tô.

Một nhà tu đức dạy rằng: mỗi ngày bạn nên suy ngắm về sự thương khó Chúa Giê su trong 10-15’, để tri ân Chúa và để múc lấy nguồn ân thánh. Để sống hạnh phúc trên cuộc đời này, người ta kể ra 4 kỹ năng: IQ là chỉ số thông minh, EQ là chỉ số tình cảm, cảm thức xã hội và cảm thức về Thiên Chúa; ngày nay con người thường bất hạnh vì cắt đứt mối liên lạc với Thiên Chúa: họ không còn nhạy cảm với sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống, họ không hiện diện trong các cử hành phụng vụ và kết quả là hai bên không thể nói chuyện và hiểu nhau – đến độ không nhận biết nhau khi đến tòa phán xét.

Trong phép lạ chữa lành người đầy tớ viên đại đội trưởng, chúng ta nhận ra 2 chi tiết: thoạt nghe chuyện người đầy tớ bị đau đớn, không cần lời van xin, Chúa nói ‘chính tôi sẽ đến chữa nó’. Điều này nói lên tấm lòng nhân hậu của Chúa Giê su, Ngài muốn chữa lành và cứu giúp con người trong cơn cùng khốn của họ, vấn đề là người con có để cha mình giúp sức hay không. Chi tiết thứ hai là lòng tin mạnh của viên đại đội trưởng: không cần Chúa phải đến tận nơi, chỉ cần Chúa phán một lời thì đứa con mình cũng được khỏe và Chúa đã khen lòng tin như thế. Câu nói của Chúa ‘ông tin thế nào thì được như vậy’ đã được các nhà tu đức diễn tả: “Thiên Chúa hành động tùy theo lòng tin của chúng ta, vì Ngài tôn trọng tự do của con người”. Đối với nhiều người, đức tin là một điều ngoại thân, thêm thắt vào cuộc đời để tạo cho đời một hương vị và một trương mục bảo hiểm, liệu cho ‘vừa vừa phải phải’ cho khoản đầu tư này … kết quả là tôn giáo chỉ mang tính tương đối trong những chọn lựa đạo đức và trong những quan tâm hằng ngày của họ. Lòng mạnh tin phải dẫn chúng ta đến chỗ đặt Thiên Chúa ở vị trí cao nhất trong những quan tâm cuộc sống, yêu mến Ngài trên hết mọi sự và trên hết mọi người, tuân giữ Lời Ngài và phục vụ Ngài trong vai trò và trong kế hoạch yêu thương của Ngài.



Xin Chúa trợ giúp lòng tin yếu đuối của chúng con. Xin cho con cảm nhận lòng thương xót của Chúa rất mãnh liệt và rất đỗi dịu dàng, như tình thương của người cha và của người mẹ với những đứa con được sinh ra trong tình thương và vẫn mãi muốn bao bọc bằng tình thương. Xin cho con biết thưa xin vâng với những điều xảy ra trong cuộc sống, đó là cách trao cho Chúa sự tự do của mình để Chúa có thể hành động và yêu thương con. Amen.

Thứ Ba, 24 tháng 6, 2025

Vật lộn

 



Trong Kinh Thánh Cựu ước (Kn 32) có kể lại cuộc vật lộn của ông Gia cop với sứ thần Thiên Chúa, cuộc vật lộn kéo dài suốt đêm –bất phân thắng bại, và lúc tảng sáng sứ thần đã đá vào gót chân ông Gia cop buộc ông phải buông tay ra, vì thế ông được đổi tên là Israel (người vật lộn với Thiên Chúa) và cho đến ngày nay người Do Thái không ăn gân chân của các con vật. Tôi muốn dùng hình ảnh cuộc vật lộn trên để nói đến cuộc vật lộn trong đức tin của ông Abraham và của hành trình đức tin của từng cá nhân khi bước theo Chúa, Đấng vô hình.

Trong những ngày đầu tuần 12 TN năm lẻ, Giáo hội cho chúng ta nghe về ông Abram: Chúa gọi ông rời quê cha đất tổ đến một vùng đất mà Chúa hứa ban cho ông làm sản nghiệp, Chúa còn hứa ‘ông sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, con cháu ông sẽ đông đúc như sao trên trời‘. Ông Abram ra đi mà không biết mình đi đâu, thế nhưng có một điều lạ là đi đến đâu ông cũng dựng bàn thờ để kính Chúa, điều đó chứng tỏ ông có một đức tin vững vàng vào một Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn trung tín và giàu lòng xót thương. Nhưng chính ông Abram đã có một cuộc vật lộn thật sự trong Đức tin với Thiên Chúa. Một hôm, lời Chúa nói: “Đừng sợ, Ta là khiên thuẫn che chở ngươi, phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn”, ông Abram chua chát nói: con đã già mà không có con cái, có lẽ con người hầu sẽ thừa kế… ông xin một dấu chỉ bảo đảm cho lời hứa và Chúa đã ghi dấu ấn trên các con vật được ông sát tế. Sau đó, đợi hoài mà không có con, bà Sa rai bảo ông đi lại với người nữ tì mong đứa con này sẽ là kẻ nối dõi, Ismael được sinh ra lúc ông Abram 86 tuổi. Ông Abram 99 tuổi và bà Sara vợ ông 90 tuổi thì Isaac được sinh ra, đây là đứa con của lời hứa: từ người con này sẽ sinh ra một dòng dõi đông đúc mang tên ông, lúc đứa trẻ khoảng 10 tuổi – Chúa lại truyền sát tế nó cho Chúa làm lễ toàn thiêu, vậy mà ông vẫn vâng lời không than trách-ông đưa tay giết đứa trẻ vì tin rằng: Chúa có quyền năng làm cho nó sống lại nếu Chúa muốn, hoặc Chúa có kế hoạch khác tuyệt vời hơn, dù thế nào thì Chúa vẫn là Đấng trung tín và giàu lòng xót thương (Kn 12-18).



Trong toàn bộ Kinh Thánh, người ta thống kê được 365 lần lời Chúa nói với con người: “Đừng sợ”. Trong Kinh Thánh, câu Chúa hứa "Ta ở cùng ngươi" xuất hiện nhiều lần, đặc biệt trong Cựu Ước và Tân Ước. Không có một con số chính xác được ghi lại, nhưng câu này được xem là một lời hứa quan trọng và thường xuyên được Chúa nhắc đến để khẳng định sự hiện diện và đồng hành của Ngài với con người (AI, internet). Nhiều linh mục và những nhà truyền giáo đã chọn câu ‘Ta ở cùng con’ làm châm ngôn sống và tìm được sức mạnh trong những gian lao thử thách. Đức Hồng y FX. Nguyễn Văn Thuận đã trải qua 13 năm tù, trong đó có 9 năm biệt giam, là một chứng nhân đức tin, đã trải qua những thời khắc thất vọng – nhưng đã tìm được an bình khi xác tín việc đang xảy ra là điều Chúa muốn, điều quan trọng là sống tốt giây phút hiện tại, tìm Chúa thì tốt hơn là tìm công việc của Chúa. Điều này cũng có thể áp dụng cho một bệnh nhân, bệnh mãn tính hoặc bệnh nan y, chỉ khi biết chấp nhận bệnh tật như một điều tất yếu của đời người, Chúa cho phép điều dữ xảy ra để giúp con người bám chặt hơn vào Chúa, tự thoát để tìm ý Chúa. Dầu thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn là Đấng đáng con người dựng bàn thờ tạ ơn, là Đấng luôn đồng hành… chỉ khi con người tuân phục ý Chúa, đặt ý muốn của mình dưới sự an bài của Đấng tối cao thì họ mới tìm được an bình sâu thẳm và đó là điều kiện cần và đủ để Thiên Chúa hành động.

Thư Do Thái diễn tả: “Dù là Con Thiên Chúa, Đức Giê su đã phải trải qua đau khổ để học biết thế nào là vâng phục”(Dt 5, 8). Các nhà tu đức đã dạy: “để sống tinh thần khó nghèo, điều kiện cần thiết là phải sống nghèo và đơn giản; để học đức khiêm nhường, phải biết vui lòng chịu những hiểu lầm và sỉ nhục..”. Hành trình đức tin, tìm kiếm ý Chúa, luyện tập các nhân đức như khiêm nhường và phục vụ của mỗi người đều phải trải qua những cuộc vật lộn giữa cái tôi ích kỷ với lời mời gọi ‘ra đi’ của Thiên Chúa. Khi gặp những thử thách gian truân, hãy xác tín rằng: Chúa có một kế hoạch cho mỗi cuộc đời, lửa thử vàng – gian nan thử đức, Chúa chủ động cắt tỉa cho cành nho sinh nhiều trái hơn, và rằng: ơn Ta đủ cho con, Chúa luôn ở với Ta và là Đấng xót thương. Amen

 

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2025

Thành kiến

 



Theo tự điển, thành kiến là ý kiến nhận xét không hay đã thành cố định, khó thay đổi. Ai trong chúng ta cũng có những thành kiến về người khác, dù có nói ra ngoài miệng hoặc dấu kín trong tiềm thức. Chúa Giê su gọi đó là một trong những ‘cái xà’ nằm trong mắt mình mà mình không thấy trong lúc cứ dễ thấy những ‘lỗi lầm’ rất nhỏ của tha nhân.

Có người nói về tâm lý này bằng hình ảnh: mỗi người đeo hai cái bị, cái trước mặt là để đựng những lỗi lầm của anh em – nên mình luôn nhìn thấy và thấy rất rõ, còn cái bị đeo sau lưng là để đựng những sai lỗi của mình, rất khó thấy và có thể nói là không bao giờ thấy. Thành kiến được ví như chiếc kính màu mình đeo, chính thành kiến làm cho tầm nhìn của ta về người khác mang một màu sắc ảm đạm hay tươi sáng. Chuyện kể rằng: có một người già được xem là minh triết thường ngồi hóng mát dưới bóng cây ở cổng làng, một hôm có một kẻ tha phương đến làng và ngỏ ý muốn ở lại làng một thời gian, anh hỏi cụ già xem tình hình dân làng thế nào trước khi đưa ra quyết định, cụ già mới hỏi anh ‘từ đâu đến và dân ở đó ra sao’, anh cho biết: dân chúng ở đó rất khó ưa, cụ già cho biết: dân ở đây cũng vậy’ và anh lại tiếp tục ra đi; ngày hôm sau cũng có một người lạ mặt khác cũng gặp cụ già với lý do như trên, cũng với những câu hỏi trên và người lạ cho biết: ngôi làng cũ của anh rất đáng sống, dân chúng hiền hòa, anh phải quyến luyến ra đi chỉ vì mưu sinh, cụ già cho biết: ‘dân ở đây cũng giống như vậy’ và anh ở lại trong làng-rất hạnh phúc với chọn lựa của mình. Xin trích một đoạn chia sẻ của cha Minh Anh: “Ma quỷ vui mừng mỗi khi chúng ta nói và hành xử tiêu cực khiến người khác nhụt chí; nó mở tiệc lớn mỗi khi ai đó nói một lời chua cay làm tan nát một cộng đoàn, một gia đình. Vì thế, chúng ta phải tỉnh thức đề phòng và ra sức sống ‘văn hoá khích lệ’. Cha mẹ khích lệ con cái, con cái khích lệ cha mẹ; anh chị em, bạn bè khích lệ nhau để “hoàn thành những gì đã đặt ra”. Bởi lẽ, “Không ai lên thiên đàng một mình!”

Thật đáng sợ khi ta gặp một ai đó, chỉ qua một khắc đồng hồ nói chuyện mà thấy họ chê bai hết người nọ đến người kia về thái độ sống, cách cư xử, cách phục vụ… Tự trong thâm tâm ta đánh giá thấp về người hay phê phán và xét đoán xấu người khác: họ tự tố cáo bản thân họ cũng có những tật xấu mà miệng họ đang dán cho tha nhân, họ kiêu ngạo, họ ganh tị, họ gây bất ổn và chia rẽ trong cộng đoàn, sẽ có ngày họ nói xấu mình và bệnh xét đoán là bệnh hay lây và là một tội lỗi mà người nghe là đồng phạm. Người hay chê sẽ rất ít có lời khen thốt ra từ miệng họ, vì cái tôi họ quá lớn – lớn như một cái xà đến nỗi không còn nhìn thấy bất kỳ vẻ đẹp nào của tha nhân. Chúng ta thường thấy các người làm lớn (như Giám mục, linh mục, người lãnh đạo cộng đoàn) thường im lặng bỏ qua những sai sót nhỏ (không quan trọng) để nói lên lời khích lệ để xây dựng những tập thể và khuyến khích sự đóng góp của các thành viên trong Giáo hội. Hãy nhớ rằng: lời khích lệ sẽ làm cho tập thể lớn lên, còn lời xét nét chê bai sẽ giết chết nó ngay từ trong trứng nước.

Có thể kể đến cái xà mà Chúa Giê su nhắc tới là sự cứng tin vào sự hiện diện và tình thương của Chúa, về giao ước và lời dạy của Chúa. Dân Do Thái, vì cứng tin, đã chạy theo các thần dân ngoại – đã lãng quên những sự dẫn dắt và bao bọc của Chúa – đã bỏ ngoài tai những Lời Chúa ban và những điều khoản của giao ước Sinai. Trái lại, ông Abraham là cha của kẻ tin đã tin tưởng vào lời hứa của Chúa: rời bỏ quê hương đi đến vùng đất hứa và Chúa sẽ làm cho ông thành cha của nhiều dân tộc. Sự cứng tin luôn là một cái xà cản ngăn con người thờ phượng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng cứu chuộc, là Cha và là Đấng quan phòng cho từng người, từ lúc thụ thai cho đến lúc họ lìa đời. Có câu chuyện kể: Có một nhà trí thức đi ngao du khắp nơi để cho quên ngày tháng, trong tâm hồn ông mang một nỗi buồn lớn vì cô đơn và vì thấy cuộc đời vô vị, một hôm ông gặp một người chăn chiên đang vui vẻ thổi sáo – tuy nghèo, chẳng có học và chẳng có tương lai, cậu mới hỏi người kia: tại sao ông phiền muộn?- Tuy tôi tin có Chúa nhưng tôi thấy cô đơn, tôi nghĩ thế giới này có đến mấy tỷ người làm sao Chúa chăm sóc từng người được; người chăn chiên gãi đầu và nói: ‘tuy cháu không có học thức, nhưng cháu lại cảm thấy niềm vui vì có Chúa là người bạn luôn đồng hành, bác nhìn xuống ngôi làng phía dưới mà xem - mỗi nhà đều có những cửa sổ, tuy chỉ có một mặt trời, nhưng mọi cửa sổ đều được chiếu sáng, Thiên Chúa quyền năng và tình yêu cũng chăm sóc tâm hồn ta như vậy, và người kia cũng được lây niềm vui và sự tin tưởng.



Thánh Phaolo nói: “Niềm vui của Chúa là sức mạnh của anh em, tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên” (Philip 4, 4). Thánh Phaolô tin rằng vui mừng là một khuynh hướng ​​cơ bản mà tất cả chúng ta nên cố gắng duy trì, ngay cả khi mọi sự không diễn ra như ý muốn của chúng ta. Trong lá thư ngắn của Phaolô gửi cho các tín hữu Philipphê, trên thực tế, ngài đã nói về việc hân hoan vui mừng tới mười lăm lần. Và chúng ta nhớ rằng Phaolô đang ở trong tù khi ngài viết lá thư đó! Ngài không để cho hoàn cảnh cướp đi niềm vui của mình. Lạy Chúa, xin hãy giúp con duy trì niềm vui của con, đặc biệt khi con đối diện với những thử thách khó khăn của cuộc sống” (Word among us).