Danh sách Blog của Tôi

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2025

Niềm tin vào Chúa Phục Sinh

 



Sự kiện Chúa Giê su chịu tử nạn và Phục Sinh nằm ở trung tâm của niềm tin Ki tô giáo: ai tin thì được cứu rỗi, ai không tin thì không được hưởng ơn cứu độ. Trong lịch sử 2000 năm nay, không thiếu những kẻ không tin vào Đức Giê su là Thiên Chúa thật và là người thật, dẫn đến việc họ không hiểu đúng cái chết chuộc tội của Con Thiên Chúa; và càng nhiều người không chấp nhận sự sống lại của Chúa Giê su, dẫn đến cái chết trầm luân vì sự cứng lòng: họ được ví như người chết khát bên đập nước.

Trong mùa Phục Sinh, chúng ta đào sâu đến sự kiện Chúa Giê su sống lại. Hai sự kiện được kể là bằng chứng phục sinh là ngôi mộ trống và việc làm chứng của những người đã được gặp Chúa (trực tiếp và trong đức tin). Cả hai sự kiện đều khó tin và khó xảy ra nếu không có một quyền lực từ trên cao. Khi Thánh Phaolô đến thành Athena, ở đó có bàn thờ kính ‘Thần vô danh’, ngài giảng cho họ về Đấng tạo dựng trời đất, đã sai Con mình đến trần gian để mạc khải những mầu nhiệm nước trời, đã chết để chuộc tội, và đã sống lại… Nghe đến việc người chết sống lại thì họ lắc đầu cười nhạo và rút lui; điều đó chứng tỏ rằng: vấn đề Chúa Giê su sống lại rất khó tin và khó chấp nhận cho người mọi thời, kể cả hôm nay. Trong những bài giảng đầu tiên của Thánh Phê rô cho người Do Thái, ngài đã nêu bật vai trò và vị trí của Chúa Giê su: Thiên Chúa đã tôn vinh Đức Giê su làm Chúa và là Đấng Ki tô, và ở dưới vòm trời này không có Danh nào khác mang lại ơn cứu độ.

Trong tuần bát nhật vừa qua, chúng ta được nghe khá đầy đủ những lần hiện ra của Đấng Phục Sinh. Có một dàn bài tổng quát cho những lần hiện ra: thân xác phục sinh của Chúa không lệ thuộc vào không gian, Chúa mang nhiều dáng vẻ khác nhau nên các môn đệ không nhận ra ngay, có lúc tưởng là thấy ma – chỉ khi Chúa tỏ ra một dấu chỉ nào đó thì họ mới nhận ra; tuy thấy Chúa rồi nhưng họ vẫn ở lại trong sự sợ hãi; Chúa Giê su thổi hơi và ban Thánh Thần cho họ và sai họ ra đi trở thành nhân chứng của Chúa Phục sinh. Chúng ta nhận ra rằng: Chúa tràn đầy lòng thương xót  khi hiện ra với các môn đệ: Chúa bỏ qua những yếu đuối của họ trong cuộc thương khó, Chúa không chấp sự cứng lòng tin của họ khi tưởng Chúa là ma, Chúa không trách khi họ sợ hãi tụ họp trong phòng kín… Vì Chúa đã trở nên người phàm và tên của Chúa là Lòng Thương Xót.

Tuy vậy, dường như hoạt động Thánh Thần chưa mãnh liệt – phải đợi đến lễ Ngũ Tuần thì Giáo hội mới thực sự hồi sinh: các nhân chứng mạnh dạn làm chứng, những ơn chữa lành – nói tiếng lạ - những mẻ cá 5.000 -7.000 linh hồn chỉ trong một ngày. Thời đại chúng ta đang sống được xem là là thời đại của Chúa Thánh Thần, nhưng có người lại nói thời đại này là thời đại hậu Ki tô giáo, có nghĩa là đạo Chúa đã lỗi thời và đang giẫy chết. Nhiều khi chúng ta cũng có cảm tưởng rằng những dấu lạ và những ơn chữa lành không mấy khi xảy ra nữa, nhân loại chìm ngập trong hận thù, đau khổ và chiến tranh, sự ích kỷ và lối sống hưởng thụ dường như đè bẹp những giáo huấn yêu thương bác ái của Tin Mừng, người xấu nhiều hơn người tốt. Người có cái nhìn bi quan thì thích ở lại trong sự buồn thảm của chiều thứ 6 tử nạn hơn là bước đi trong ánh sáng của Chúa Phục sinh.

Tình trạng 'lúa và cỏ lùng chung sống cho tới mùa gặt' nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa, để niềm tin của mỗi người được trui luyện. Ngay trong ví dụ lúa và cỏ lùng, chúng ta nhận ra sự lạc quan của Thiên Chúa: dù có những hạt rơi trên đá sỏi, bên vệ đường, trong gai góc… bị thất bại và lãng phí, tuy nhiên vẫn có những hạt rơi vào đất tốt và trổ sinh hoa trái dồi dào. Mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa cũng diễn ra như vậy: việc chọn người cộng tác, việc Chúa rao giảng trong thời gian quá ngắn và thành quả chẳng bao nhiêu, cái chết và phục sinh còn nhiều tranh cãi thì Chúa lại rời bỏ địa cầu để lên trời. Nếu một công trình nhân loại mà tổ chức như vậy thì chỉ có thất bại, nhưng Cứu Chuộc là công trình của Chúa, Giáo hội là thân mình của Chúa và sức mạnh thực sự của cánh đồng truyền giáo là Chúa Thánh Thần. Trải qua biết bao thăng trầm và bắt bớ trong suốt lịch sử 2000 năm nay, Giáo hội vẫn trường tồn dù trong tay chẳng có sư đoàn bộ binh nào cả, và Giáo hội đó sẽ muôn đời kiên trung, như lời xác tín của chính Chúa. Cha Kim Long có viết bản nhạc ‘Chúa không lầm’: “Chúa không lầm khi Ngài đành hy sinh, để rồi nhìn con không đáp tình, vì Chúa đã biết từ ngàn xưa: còn mang thân thể nặng nề, là còn luôn mê mải trần thế. Nhưng lòng Chúa quá bao la, dù cho bao phen con yếu đuối, thành tâm xin ăn năn sám hối, là Ngài lại thứ tha”. 




Câu tuyên xưng đức tin của Thánh Tô ma đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con”. Mục đích cao nhất của Giáo dục Kitô giáo là giúp cho người khác nhận ra sự thiện tối thượng của cuộc đời là Thiên Chúa: Một người dù có rất ít của cải nhưng có niềm tin vào Chúa thì được kể là người giàu có, vì có Chúa là có tất cả. Niềm vui của người Ki tô hữu bắt nguồn từ việc được làm con cái Chúa, được Chúa yêu thương, nâng đỡ và đồng hành trên con đường tiến về quê trời. Sức mạnh của Chúa Phục Sinh là có thật và mãnh liệt, giúp ta thắng vượt những nết xấu nơi bản thân, và đóng góp phần nhỏ nhoi của mình vào việc làm chứng nhân cho Chúa. 

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2025

TÔI ĐÃ THẤY CHÚA (Ga 20, 11-18)

 



Bà Ma ri a Madala đến mộ và khám phá ra ngôi mộ trống. Chúa hiện ra với bà nhưng bà cứ tưởng là người làm vườn, bà chỉ nhận ra Chúa khi được gọi tên. Sau khi gặp Chúa, bà đi báo tin cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa” và bà kể lại những điều Chúa đã nói với bà.

Sứ điệp bà Maria loan báo tuy ngắn nhưng lại đầy đủ nội dung. Bà Maria (và một số nhân chứng Chúa chọn) đã thấy Chúa bằng mắt thịt – còn chúng ta chỉ nhìn thấy Đấng Phục sinh bằng con mắt đức tin. Thư Do Thái nói về ông Moi sen như sau:  Nhờ đức tin, ông bỏ Ai-cập mà không sợ cơn thịnh nộ của nhà vua; ông vững vàng không nao núng, như thể xem thấy Đấng vô hình. Chung quanh chúng ta vẫn có những chứng nhân như thế, đó là các Ki tô hữu nhiệt thành sống niềm tin của mình, có thể họ vô danh - không nổi tiếng, nhưng chỉ Thiên Chúa mới biết lòng tin của họ. Dễ nhìn thấy hơn, đó là các tu sĩ nam nữ và các linh mục, các thừa sai giáo dân và các giáo lý viên… cuộc sống của họ muốn nói với thế giới rằng: Tôi đã thấy Chúa. (Theo thống kê của Giáo hội năm 2016: Dân số thế giới là 7,1 tỷ/ Công giáo là 1,2 tỷ/ Linh mục là 416.000/tu sĩ nam nữ là 736.000)

Có một thực tế là chúng ta dễ mất đức tin khi thấy họ (những thành phần ưu tú trên) sống không đúng với niềm tin, nhưng chúng ta lại dường như đui mù khi cuộc sống của họ nêu bật những nhân đức của Ki tô giáo. Khi phong thánh cho một vị, không phải vì họ không có nết xấu và không phạm tội, nhưng đúng hơn họ biết đứng dậy từ trong những nết xấu của mình và trung thành với Chúa Ki tô cho đến giây phút cuối đời, họ nêu gương sáng về một số nhân đức của Tin Mừng để các tín hữu noi gương. Hãy xin Chúa mở mắt tâm linh để nhìn thấy những điều tốt đẹp mà các nhân chứng Tin Mừng đang chiếu tỏa và biết im lặng trước những điều có vẻ phản chứng, vì có những điều kín ẩn trong tâm hồn tha nhân mà ta không biết; hơn nữa việc xét đoán tha nhân (phân biệt lành dữ) là việc của Chúa và là công việc khó khăn mà ta đừng dại gì rước vào thân, rất dễ mang họa.



Trong những năm gần đây, Giáo phận Bmt thực hiện việc thuyên chuyển các linh mục thường xuyên hơn, nên giáo dân thường có sự so sánh và được hưởng nhiều hương vị trong các hoạt động của các vị mục tử khác nhau. Đó là một điều tốt: giáo dân học sự vâng phục và cộng tác, giáo sĩ học được sự từ bỏ, chấp nhận và phó thác cho Chúa trong công việc tông đồ. Trong một lần gặp gỡ các giáo chức, ĐGM Vinh sơn căn dặn: Đừng quá khắt khe với các linh mục, vì khi chọn con đường tu trì làm linh mục triều, các ứng viên đều có thiện chí muốn rao truyền Tin Mừng, nhưng vì là con người nên có những hạn chế và có thể có những tham sân si; hãy cầu nguyện cho các linh mục để họ được kiên vững trong lý tưởng phục vụ Chúa và phục vụ đồng loại. ‘Người ta’ (những người thích nói xấu các linh mục và con cái ma quỷ) thích bôi nhọ các vị mục tử như phương cách tối ưu để triệt phá Giáo hội: đánh vào đầu rắn, đánh vào kẻ lãnh đạo của một tổ chức; nhưng họ không biết rằng: Giáo hội là của Chúa, và không có quyền lực nào có thể phá hủy được Giáo hội của Chúa Ki tô.

Mỗi ngày sống là một trang sử mới cuộc đời ta, để ta nói với người khác rằng: Chúa đã sống lại, tôi đã gặp Chúa. Hãy khuyến khích người khác khi họ làm điều tốt, và chân thành góp ý về điều chưa tốt. Hãy kể cho người khác ‘phép lạ’ Chúa đã làm cho mình. Điều lạ vẫn xảy ra liên tục trong đời ta, nhưng tại sao ta lại ngại kể ra? Có phải vì Chúa không muốn, vì sợ mất đức khiêm nhường? - không phải thế, vì ma quỷ không muốn và vì ta thiếu lòng tin, vì sợ người khác cười mình ngây thơ! Trong Tin Mừng kể lại chuyện: một người bị quỷ ám được chữa lành, anh muốn theo làm môn đệ Chúa, nhưng Chúa bảo anh “con hãy về, kể cho người khác những gì Chúa đã làm cho con’. Vậy mà chúng ta thường xuyên im lặng không dám nói những việc tốt đẹp Chúa làm cho mình, và thích kể đi kể lại những chyện ‘hiếp, sốc, lộ hàng, ăn quỵt, lừa lọc…, như những đồ đệ trung thành của Sa tan. Hãy học gương bà Ma ri a để nói với tha nhân: tôi đã thấy Chúa và kể lại những điều Chúa đã nói với mình.

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2025

Ánh sáng Đấng Phục Sinh

 

 



Trong đêm vọng Phục Sinh, Giáo hội long trọng cử hành nghi thức làm phép lửa và làm phép nến Phục Sinh. Một sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng được thể hiện rõ rệt: lửa và nến được làm phép trong sự bao trùm của bóng tối, nhưng khi ánh sáng của nến Phục Sinh được thắp sáng cho nhiều người thì một bầu khí vui tươi tràn ngập cộng đoàn và rồi Thánh  đường bỗng nhiên bừng sáng – cả ánh nến và đèn điện. Điều đó phần nào diễn tả ý nghĩa lớn lao của biến cố Phục Sinh: nếu Chúa không phục sinh thì vạn vật chìm ngập trong chết chóc và bóng tối.

Điều đáng lưu tâm là ánh sáng của cây nến Phục Sinh được lan truyền từ người này qua người khác, từng người một và rồi cả cộng đoàn rực sáng: ngọn nến sáng trên tay mỗi người tượng trưng cho đức tin của từng tâm hồn. Niềm vui Chúa Phục Sinh được ban tặng cho trần gian là một ân huệ nhưng không (do lòng thương xót Chúa, con người không xứng đáng) có thể được ví như vầng dương là trung tâm của hệ mặt trời, nhưng khác với mặt trời luôn chủ động và áp đặt tác động của nó trên vạn vật, niềm tin và niềm vui Chúa Phục Sinh phải được loan truyền cho nhau – từ người này qua người khác… đó là cách Chúa muốn và là một mầu nhiệm vẫn không ngừng diễn ra trên hành tinh này.

Ơn Cứu độ Chúa Giê su hoàn tất qua biến cố chết và phục sinh được áp dụng cho mọi người, không loại trừ một ai, thế nhưng Thiên Chúa chỉ âm thầm mời gọi – tác động, không áp đặt niềm tin vì tôn trọng tự do của con người. Bởi đó, khi sống lại, Chúa không làm những việc kinh thiên động địa, Ngài chỉ hiện ra với những nhân chứng đã tuyển chọn (Cv 10, 40), để rồi họ loan báo và làm chứng cho người khác. Sứ mạng truyền giáo là ơn gọi của mỗi người khi họ chịu phép Rửa: thắp sáng niềm tin cho anh em mình. Ánh sáng Phục Sinh phải thắp lên từ Ngọn Nến Phục Sinh là Đức Ki tô (khác với việc lấy quẹt ga từ trong túi mình bật lên đốt nến cho mình và thắp chuyền cho người khác), điều đó muốn nói với ta rằng: đức tin của ta phải bắt nguồn từ lòng Thương Xót Chúa ban tặng, phải được nuôi dưỡng bởi sự tiếp xúc trực tiếp với Đức Giê su trong các cử hành phụng vụ, gặp gỡ Ngài nơi tha nhân – nhất là những người cùng khổ. Đừng chờ Chúa đến thăm nhà mình và hiện ra với mình, nhưng hãy đón tiếp nhau – mỉm cười với nhau – cảm thông với sự yếu đuối của nhau, hãy ra khỏi nhà và rời khỏi cell phone để thăm một người bệnh hoặc một người già yếu, dù chẳng thú vị gì - nhưng đó là cơ hội để gặp Đấng Phục Sinh. Mỗi cuộc gặp gỡ, người Ki tô hữu hãy nói với nhau rằng: Sự sống đã chiến thắng sự chết, tình yêu đã chiến thắng hận thù, mỗi người là anh em của nhau vì có chung một Cha trên trời, và chúng ta sẽ cùng chung sống với nhau trên thiên đàng.



Lời nguyện của ngày lễ Phục Sinh rất đáng ta thuộc lòng: Xin Cha ban Thánh Thần, làm cho chúng con trở nên người mới, để sống một cuộc đời mới tràn ngập ánh sáng Đấng Phục Sinh. Ánh sáng dẫn đường tâm linh, ánh sáng sưởi ấm cõi lòng. Chúa Đã Phục Sinh, đó là niềm vui của chúng ta. Ngay từ giây phút đầu tiên của sự kiện Chúa Phục sinh, đã xuất hiện tin giả rằng xác Chúa bị đánh cắp, bởi vì người ta không tin được là một kẻ đã chết nay có thể sống lại – và thế gian không muốn đón nhận một chiến thắng của Đấng mà họ đã giết chết cho bằng được. Ma quỷ vẫn không ngừng gieo rắc sự nghi ngờ trong từng tâm hồn và trên khắp thế gian này, chúng lôi kéo tâm trí ta bận tâm đến những điều phù phiếm và tạm bợ để ta sao lãng niềm vui CHÚA ĐÃ PHỤC SINH, ALLELUIA, ALLELUIA.

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2025

Tôi vô can

 




Trong vụ án Chúa Giê su, ông Philato để lại nhiều câu nói đáng để ta suy gẫm trong mùa Chay: Ông là vua ư? Tôi vô can trong vụ đổ máu người này, Sự Thật là gì?

Trong khuôn khổ bài viết ngắn này, chúng ta dừng lại ở câu nói “Tôi vô can” kèm theo đó là việc rửa tay công khai, chứng tỏ bàn tay của ông không dính máu trong vụ án này. Sau khi đã tìm nhiều cách để tha Đức Giê su mà không được, ông tạm bằng lòng với việc rửa tay vì cho rằng ‘đã hết cách’. Đó là tâm trạng của kẻ ngoài cuộc, của việc phủi trách nhiệm, chọn sự an toàn cho bản thân hơn là hướng về sự thiện và bảo vệ công lý.

Đó cũng có thể là tâm trạng của mỗi người chúng ta khi suy gẫm về cuộc thương khó: chúng ta tri ân Chúa vì đã đổ máu đào và hiến mạng sống vì yêu loài người, nhưng dường như phần đóng góp của ‘tội tôi’ vào cái chết đó là không rõ ràng – nếu không muốn nói là tôi vô can, vì sự kiện Con Thiên Chúa nhập thể và chịu chết đã xảy ra cách đây gần 2000 năm rồi. Trong mùa Chay và trong suốt Tuần Thánh, chúng ta tiếp xúc với những bản văn Kinh Thánh nói về cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Giê su, ngắm 15 sự Thương Khó, đọc lại những suy niệm của các nhà tu đức và thần học… chúng ta hiểu rất rõ lý do và ý nghĩa của Thập giá – một tình yêu dâng hiến của Con Thiên Chúa, nhưng dường như tâm hồn chúng ta vẫn lạnh ngắt và khó nhỏ ra một giọt nước mắt ăn năn: vì tội tôi đã đóng đinh Con Thiên Chúa vào thập giá.

Trở lại với câu chuyện hai môn đệ trên đường Emaus, dù đã tiếp xúc với những bản văn Cựu ước và cả những tiên báo của Chúa Giê su về cái chết và phục sinh, nhưng lòng họ chẳng hiểu gì cả trước những diễn tiến của mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, họ buồn bã rời bỏ Giê ru sa lem. Chúa Giê su xuất hiện, trích dẫn Thánh Kinh để họ hiểu ý nghĩa của các biến cố vừa xảy ra, lòng họ bừng cháy và họ nhận ra người bạn đồng hành là Chúa Giê su. Thế đó, đôi mắt trần không thể nhìn thấy điều thiết yếu (Exupéry, nhà văn Pháp), dù chúng ta có nỗ lực đọc nhiều tài liệu để tìm cách hiểu và yêu Đấng Cứu Chuộc hơn thì trí óc ta chỉ tìm thấy một mớ kiến thức cũ, còn tâm hồn dường như bị đóng băng trước một mầu nhiệm. Một vị hồng y già nói với các linh mục: “Tôi đã từng nói và viết nhiều về vấn đề đau khổ của con người, nhưng bây giờ tôi nghiệm ra mình chẳng hiểu gì về nó cả”. Khi đi thăm bệnh nhân, nhất là những bệnh nan y và những hoàn cảnh bi ai, có lẽ chúng ta chỉ nên hiện diện để động viên họ và nói ít về đau khổ - vì ta chẳng hiểu gì nhiều.



Lạy Chúa Giê su Thập Tự Giá, chúng con suy gẫm và tích cực tham dự phụng vụ trong suốt mùa Chay 2025, và hôm nay là Thứ Sáu Tuần Thánh, kỷ niệm cuộc Thương Khó Chúa chịu vì chúng con. Xin Chúa biến đổi lòng con, để con ý thức ‘vì tội con mà Chúa đã chết để con được sống’, để thấy rằng con không vô can trong việc Chúa hiến tế trên thập giá. Lạy Chúa, xin ơn Thánh Linh soi dẫn trí khôn, biến đổi con tim để con yêu Chúa nhiều hơn, lòng bừng cháy hơn trước hành động cao đẹp mà Chúa đã dành cho con – vì chỉ Thần Khí mới làm cho sống động những hành vi của MỘT THIÊN CHÚA TÌNH YÊU trong trái tim chai đá của con. Amen.

Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025

Tại sao các ngươi tìm giết Ta?

 




Bài Tin Mừng của Thánh Gio an 10, 32-42 vẽ nên một cuộc tranh luận cốt lõi về cái chết của Chúa Giê su. Chúa hỏi thẳng dân Do Thái: Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt đẹp Chúa Cha đã giao cho tôi làm, vì việc nào mà các ông đòi ném đá tôi? Họ trả lời: Chúng tôi ném đá ông không phải vì một việc tốt đẹp, nhưng vì một lời nói phạm thượng, ông là người phàm mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.

Chúa Giê su đã nhiều lần tuyên bố mình là Con Thiên Chúa, Chúa trưng ra bằng chứng là các việc Ngài làm minh chứng cho loài người biết nguồn gốc Thiên Chúa của mình: các phép lạ, quyền tha tội, cái chết và phục sinh. Ông Gioan đã làm chứng và nhiều người đã tin vào Đức Giê su “vì mọi lời ông Gio an nói về Người đều đúng”. Trong Tin Mừng có kể lại 2 lần tiếng Chúa Cha xác nhận từ trời cao: “Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng”, một lần khi Chúa chịu phép rửa ở sông Giodan và lần khác khi Chúa biến hình trên núi Tabor. 

Đọc lại các trình thuật Tin Mừng kể về cuộc thương khó Chúa, chúng ta nhận thấy hai điều: Chúa Giê su chủ động dâng hiến mạng sống để thi hành kế hoạch cứu chuộc mà Cha đã định – Chúa khẳng khái tuyên bố trước tòa Phi la tô rằng: "Tôi là vua, nhưng nước Tôi không thuộc về thế gian này"; điều thứ hai là dân Do Thái thù ghét Chúa Giê su đến cực độ, phải giết bằng giá nào – ghét hơn Ba ra ba.




Chúng ta tự hỏi: tại sao Chúa Giê su bị ghét đến như vậy? Có hai lý do: lý do thứ nhất là giáo lý của Chúa đi ngược với tham sân si của người đời và lý do thứ hai là Chúa Hằng Hữu. Niềm tin vào Chúa Giê su đòi buộc con người phải thay đổi lối sống để bước theo một con người – đặt dấu chân mình trên dấu chân Chúa Giê su, tuân giữ Lời Người dạy, mà Đấng ấy lại Hằng Hữu – nghĩa là còn đang sống bên cạnh ta và biết rõ mọi việc ta làm… nên cách tốt nhất là khai tử đạo Ki tô, vì dường như nó cản trở con người thỏa mãn dục vọng của mình - để vui hưởng cuộc đời. Có người nhận xét: Người ta không ghét Đức Phật, Đức Khổng hay Ông Mahômet. Một ít người bị ghét lúc sinh thời như Neron, Hốt Tất Liệt, hay Bismark. Nhưng ngày nay, còn có ai nghĩ đến ghét họ nữa! Chẳng còn ai đe dọa xúc phạm mộ Neron. Cũng chẳng còn ai sỉ mạ Bismark nữa. Họ chết là hết bị ghét. Cả Hoàng Đế nước Đức, sau thế chiến thứ hai, bị nhân dân và thế giới sỉ nhục, nay cũng không còn ai ghét nữa. Sự thù ghét đối với mọi người đã tiêu tan, mà sao đối với Chúa Giêsu vẫn tồn tại? Đâu là lý do? Đó là do giáo lý Chúa dạy ngăn cản thị dục người ta và Ngài Hằng Hữu. 

Hằng Hữu (I Am Who I Am) mang rất nhiều ý nghĩa: tự mình mà có (Tự hữu), Là Alpha và Omega (không có khởi đầu và kết thúc), Thiên Chúa luôn hiện diện và hành động trong hiện tại . Còn các vĩ nhân và mỗi người chúng ta chỉ là hiện hữu, hiện hữu thì rất khác: được sinh ra trong thời gian.




Lịch sử Ki tô giáo đã chứng minh Lời tiên báo của Chúa Giê su: “Nếu thế gian ghét các con thì hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước, và vì các con không thuộc về thế gian”. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã nói: “Tôi thà ngàn lần thấy một Giáo hội bị bách hại còn hơn một Giáo hội thỏa hiệp”. Xin trích một đoạn ngắn bài viết của ĐTGM FULTON SHEEN:  “Tôi hân hạnh thuộc về một Giáo Hội người ta ghét. Đã hẳn, kẻ nhận biết bản tính thần linh của Giáo Hội thì yêu Giáo Hội. Nhưng, kẻ tưởng Giáo Hội là lỗi thời, lạc hậu, dị đoan, ma thuật thì ghét Giáo Hội. Kẻ chịu ơn thiêng liêng của Giáo Hội, thì mến Giáo hội như người Mẹ vậy. Thế gian đối xử với Giáo Hội y hệt như đã đối xử với Đức KiTô. Ngài cũng được yêu mến, nhưng cũng bị ghét bỏ. Không có ai được quí trọng như Ngài, nhưng cũng không có ai bị khinh dể như Ngài”.

Ngày nay thế gian không thể đóng đinh Chúa Ki tô thêm một lần nữa thì họ quay sang thù ghét Giáo hội là hiền thê của Ngài. Có thể nói dù ở Đông hay ở Tây, thuộc thể chế chính trị nào, người ta vẫn không ưa và tìm cách tẩy chay ảnh hưởng của Ki tô giáo trên xã hội, đó là một sự thật mà Chúa chúng ta đã trải qua, và hãy hãnh diện vì được thuộc về Chúa Ki tô. Thánh Phao lô đã thốt lên: “Tôi coi mọi sự là thua thiệt trước mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki tô, Chúa tôi”.

Thứ Ba, 8 tháng 4, 2025

Ta Là Đấng Hằng Hữu ( I Am Who I Am)

 



Chúng ta đã gặp cụm từ này từ rất sớm ở trong Kinh Thánh - trong sách Xuất Hành (3, 14), khi Chúa tự giới thiệu Danh của mình cho ông Moi sen. Còn ở trong Tin Mừng Gioan, cụm từ này mang một hương vị mới: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu và biết Tôi không tự mình làm điều gì, Tôi chỉ nói điều Cha truyền (Ga 8, 28).

Thật đối nghịch với suy nghĩ của loài người, khi phạm nhân bị đóng đinh vào thập giá – một hình phạt ô nhục, thì điều rõ ràng nhất xảy đến là cái chết thảm khốc. Nhưng trên bình diện Thần học, cái chết của Chúa Giê su là biểu hiện của một tình yêu dâng hiến để cứu sống cả nhân loại. Chúng ta gặp hình ảnh này trong sách Dân Số (21, 8): Dân Do Thái phản loạn, họ kêu trách Chúa và Moi sen; Chúa cho rắn độc cắn chết nhiều người; Chúa truyền cho ông Moi sen đúc một con rắn đồng treo lên một cây cột, hễ ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu sống. Thật là một hình ảnh tiên trưng đầy đủ ý nghĩa cho hình ảnh Chúa Giê su bị treo trên thập giá, một biểu hiện rõ ràng của THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU, ĐẤNG HẰNG HỮU. Chúa Giê su nói: “Khi nào Ta bị treo lên, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Đó là giờ Chúa được tôn vinh, trở nên giá cứu chuộc, mọi dân nước được trở thành con cái Thiên Chúa.

Trong Tin Mừng Gioan, nhiều lần Chúa Giê su nói đến “giờ” Con Người được tôn vinh, một ám chỉ sự vĩ đại của sự hiến tế thập giá, giá chuộc tội, biểu hiện của Tình Yêu: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban cho họ Người Con Một. Ai đó đã từng nói: Đối nghịch của tình yêu không phải là hận thù, ghét bỏ mà là sự bỏ mặc, không đếm xỉa đến. Tình yêu Chúa Giê su dâng hiến cũng thường bị loài người xem thường mặc kệ, không quan tâm và đó là một sự xúc phạm làm buồn lòng Chúa. Điều đó cũng dễ hiểu: nếu người cha, mẹ, bạn bè liều mạng sống mình để cứu ta khỏi một cái chết rõ ràng, vậy mà ta lại không cho đó là một sự hy sinh. Có câu chuyện kể: Một chiếc thuyền gặp nạn và lật úp, khoảng 40 người bị hất tung xuống dòng nước sâu, trong số hành khách đó có một vận động viên bơi lội – anh bơi ra vào khoảng 20 lần và cứu được khoảng 25 người – sau đó anh bị vọp bẻ vì quá rán sức và mang thương tật suốt đời, thế nhưng điều đáng buồn là trong 25 người được cứu đó không một ai trở lại để nói một lời cảm ơn anh. Những mạc khải của Chúa Giê su cho thánh Faustina cho thấy Chúa rất buồn lòng khi con người không màng chi ơn cứu độ mà Chúa mang lại, và chuỗi kinh lòng thương xót cứ lặp đi lặp lại những lời tôn kính hy tế Mình và Máu của Con rất yêu dấu Chúa, và là những lời kinh rất đẹp lòng Chúa: LẠY CHA HẰNG HỮU, CON XIN DÂNG LÊN CHA MÌNH VÀ MÁU, LINH HỒN VÀ THẦN TÍNH CON RẤT YÊU DẤU CHA LÀ ĐỨC GIÊ SU KI TÔ ĐỂ ĐỀN VÌ TỘI LỖI CHÚNG CON VÀ TOÀN THẾ GIỚI. VÌ CUỘC KHỔ NẠN ĐAU THƯƠNG CỦA CHÚA GIÊ SU KI TÔ, XIN CHA XÓT THƯƠNG CHÚNG CON VÀ TOÀN THẾ GIỚI.




Chúa Giê su nói rõ: “Nếu các ông không tin là Tôi Hằng Hữu, các ông sẽ mang tội mình mà chết”. Con rắn đồng trong sa mạc được treo lên, nhưng chỉ những ai nhìn lên thì mới được cứu. Chúng ta cũng vậy, chỉ khi tin rằng: Đức Giê su là Đấng từ trời xuống, cái chết của Ngài có giá cứu chuộc, gắn bó cuộc sống mình với Ngài thì mới được cứu sống. Tin Mừng Gioan 19,37: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu”. Chúa cho con người được đóng góp phần mình vào giá cứu chuộc của Chúa, dù ít ỏi vì là phần của một tạo vật, thì cũng trở nên giá trị khi hòa với hy lễ của Con Thiên Chúa. Chúng ta phải tạ ơn Chúa vì hồng ân này, và Chúa mời gọi ta: khi gặp đau khổ và trái ý, hãy nhìn lên thập giá Chúa để múc lấy sức mạnh, vì Chúa đã từng trải qua những khổ nhục và Chúa cùng đi với ta.

Thứ Bảy, 5 tháng 4, 2025

Hãy trở về

 



Chúng ta hầu như thuộc lòng những chi tiết về câu chuyện kể về ‘Người phụ nữ ngoại tình’ (Ga 8, 1-11), đến độ khó tìm được một vài tình tiết có thể đánh động lòng mình.

Xuyên suốt những câu chuyện trong Tin Mừng, các kinh sư và biệt phái đã tranh luận với Chúa Giê su nhiều vấn đề: sạch và dơ, vi phạm luật sa bat, nộp thuế cho Rô ma, quyền tha tội, luật nào trọng nhất, tẩy uế đền thờ… nhưng hầu như là những vấn đề trừu tượng (lý thuyết). Lần này, họ đưa đến một nhân chứng là người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, luật Moi sen truyền ném đá, còn Chúa dạy sao? Họ chắc mẩm lần này Chúa không thể tránh được cái bẫy của họ, vậy mà Chúa Giê su đã làm cho họ ngạc nhiên, lẩm bẩm ra về - để người phụ nữ ở lại, lòng đầy tức tối – trái ngược với sự tự tin khi họ kéo đến. Chúng ta nhận ra rằng: Chúa luôn điềm đạm, chậm nói và chậm phản ứng, hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Từ lúc sinh ra, cuộc sống ẩn dật, những va chạm khi đi rao giảng, khi môn đệ chậm tin và phản bội, khi bị tra tấn và đóng đinh, khi bị sỉ nhục… Chúa luôn thể hiện mầu nhiệm tự hủy và không mất bình tĩnh.

Câu nói của Chúa Giê su thật đáng suy gẫm: Ai trong các ngươi vô tội, hãy ném hòn đá đầu tiên đi. Khuynh hướng kết tội và ném đá tha nhân là dựa vào bầy đàn. Nếu ai đó ném hòn đá đầu tiên thì người khác sẽ hùa theo để ném những hòn đá tiếp theo. Chúa Giê su giúp họ nhớ lại một sự thật mà con người thường lãng quên: không ai là vô tội trước mặt Thiên Chúa. Vào thập niên 70 của thế kỷ trước, có một vị linh mục đã tưởng tượng: nếu tội mỗi người hiện lên trên trán thì đố ai mà dám ngẩng mặt lên để kết án người khác. Chúng ta thường khắt khe với sai lỗi của anh em là vì 2 lý do: tưởng rằng mình giỏi hơn và tốt lành hơn người khác. Càng sống trong môi trường phải cạnh tranh để tồn tại, người ta phải để ý đến kỹ năng sống, nếu không sẽ bị quy tội gây xáo trộn nơi công sở và mất việc như chơi. Nhưng trong những sinh hoạt đạo đức, chúng ta cũng phải năng xét mình lại để nhận ra những cách cư xử gây bất hòa với người khác như: vạch lá tìm sâu, góp ý thiếu tế nhị làm mất uy tín nhau, tranh luận về những thứ vụn vặt và danh từ, người kia tự chịu trách nhiệm và thực ra họ không hỏi ý kiến ta. Mạng xã hội đã rất tâm lý khi thiết kế nút like và thống kê lượt người tương tác và theo dõi, nhờ vậy tác giả cảm nhận được sự đồng thuận và thêm động lực để an tâm với cách hành xử của mình, nhưng hãy cẩn thận vì nút like có thể được ví như ‘hòn đá đầu tiên’ được ném đi.




Hãy trở về với Cha để mãi sống trong ân tình. Nội dung mời gọi sự trở về được ví như sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả bài Tin Mừng. Khi thấy đám đông bừng lên sát khí muốn giết chết người phụ nữ phạm tội, Chúa Giê su cúi xuống viết trên đất – dù bị hỏi dồn dập – từng giây phút trôi qua nặng nề. Lòng Chúa buồn vì sự kênh kiệu và hợm hĩnh của đám đông, Chúa mời gọi họ lắng đọng một chút để biết mình. Khi không thể giữ im lặng lâu hơn, Chúa nói: “Ai trong các ngươi vô tội, hãy ném hòn đá đầu tiên đi”. Câu này phải được vang vọng lại trong suốt cuộc đời ta, giúp ta dè dặt hơn khi đối xử với anh em. Thỉnh thoảng chúng ta nên nhớ lại những tội lỗi mình đã phạm trong quá khứ để nhắc mình rằng: Tôi thật yếu đuối, và Chúa đã tha tội tôi quá nhiều – vì nếu Người chấp tội thì tôi đã tiêu đời lâu rồi. Đám đông hôm ấy, từng người một, đã nhận ra mình cũng là kẻ có tội, nên họ âm thầm rút lui. Chúa Giê su nói với người phụ nữ: “Ta không kết tội chị, chị hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa”. Đây là lời mời gọi hãy thay đổi đời sống phù hợp với lề luật Chúa và được sống trong ân tình của người con cái Chúa.

Mùa Chay đã gần kết thúc, lời mời gọi ta trở nên giống Chúa Giê su hiền lành và khiêm nhường trong lòng và đừng kết án anh em càng trở nên khẩn thiết hơn. Hãy để tâm hồn mình lắng đọng đôi chút để nhận ra những biểu hiện của lòng kiêu ngạo, tự mãn, ích kỷ … đang làm cho tâm hồn ta bất an và chật chội để đón nhận ân tình Chúa muốn rộng ban cho ta.

 

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2025

Về nhà

 



Sau một loạt tội lỗi đã phạm: đòi chia gia tài, bỏ nhà ra đi, phung phá tài sản, ăn chơi sa đọa, người con thứ vẫn không hề nghĩ đến tình cha khi trở về nhà, động cơ chính của anh là vì quá túng đói và cơ cực, đành bất đắc dĩ trở về. Trong một giờ học giáo lý, khi kể lại dụ ngôn ‘người cha nhân hậu’, từ đầu cho đến lúc người con thứ cất bước trở về nhà, người GLV mời các em ‘mô tả tưởng tượng’ phản ứng của người cha trong đời thường? – Một em phát biểu: ông ta cầm sẵn một cây roi mây đã cất sẵn và dằn cho thằng con hư hỏng một trận ra trò, đuổi cổ ra khỏi nhà, không có cha con gì hết.

Nói vậy để chúng ta thấy rằng: không ai dò thấu cõi lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Ông tha thứ vô điều kiện cho nhân loại - là những đứa con đi hoang. Nhưng tự trong thâm tâm của người cha là một sự trả giá rất đắt: ban cho họ Người Con duy nhất của ông - hiến mình làm giá chuộc tội cho thiên hạ. Khi người Con yêu bị treo trên thập giá, đám đông dân chúng chờ xem ‘phạm nhân Giê su’ thốt ra những lời nguyền rủa độc địa – trách trời trách đất, và họ sửng sốt khi nghe 7 lời di ngôn rất dịu dàng, đẹp nhất là lời tha thứ: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Cả người con thứ, cả người anh cả, và tất cả nhân loại đều bỡ ngỡ vì tấm lòng nhân hậu của người cha khi ông đón tiếp đứa con đi hoang trở về nhà, Người không mệt mỏi khi tha thứ. Thánh Kinh còn diễn tả: Tội các ngươi dù có đỏ như son, Ta cũng sẽ làm cho nên trắng như tuyết; có thắm tựa vải điều cũng trở nên trắng như bông.




Ai đã từng một lần đi xa nhà, đều nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn với một niềm da diết linh thiêng, và niềm vui vỡ bờ khi được trở về bên cạnh những người thân yêu, dù còn sống hay đã khuất. Đừng nghĩ rằng người con thứ hư hỏng ngay từ giây phút đầu, chắc chắn anh đã có những ước mơ và muốn thực hiện ước mơ đó, nhưng chẳng may thất bại và anh không mặt mũi nào mà nhìn lại người cha, anh ân hận – không thể tha thứ cho mình và rất tủi nhục khi bước chân về nhà. Ai trong chúng ta cũng đã từng phạm tội, đã đi hoang xa nhà và xa tình thương bao bọc của Thiên Chúa, hãy nhớ lời Chúa Giê su: “Các thiên thần trên trời vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn là vì 99 người công chính không cần hối cải”. Chúng ta thường không nhận ra tội mình, dễ nhầm tưởng rằng mình công chính, nên ngại đến với tòa giải tội để trở về với Cha mình và hiệp thông lại với Hội Thánh. Thật đáng mơ ước là cả các linh mục và giáo dân có chung nỗ lực là siêng năng lãnh nhận bí tích hòa giải hơn, vì có như vậy thì lương tâm ta mới nhạy bén hơn với tội, và điều này rất đẹp lòng Chúa.


 

Xin cho con tin vào tình thương Chúa để trở về với Chúa mỗi lần con xúc phạm đến Chúa và anh em. Và Có một điều con phải thầm nhắc lại mỗi ngày: Thiên Chúa là cha nhân từ, luôn mong chờ được con đón tiếp vào tâm hồn, để rồi Chúa sẽ dùng bữa tối với con và bao phủ con bằng muôn hồng ân chan chứa.

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2025

Niềm vui của người con cái Chúa

 



Bài Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Chay năm C là dụ ngôn người Cha nhân hậu (Lc 15, 1-3.11-32). Có lẽ đây là một dụ ngôn hay nhất của Tin Mừng, có thể dựng thành hoạt cảnh tôn giáo. Dụ ngôn này có nhiều tình tiết thú vị làm chúng ta phải sửng sốt về tình yêu của Thiên Chúa dành cho từng tâm hồn. Dụ ngôn này rất đúng cho thời Chúa Giê su và còn đúng cho con người mọi thời. Hãy đọc kỹ bản văn và đặt câu hỏi: Chúa Giê su muốn nói gì với tôi qua dụ ngôn này?

Chúa Giê su kể dụ ngôn này là để trả lời cho những người Pha ri sêu và các kinh sư khi họ lẩm bẩm: “ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Đón tiếp là nói đến sự tôn trọng, ăn uống là nói đến sự gần gũi. Chúa Giê su đã nhiều lần tỏ rõ lập trường của Chúa: Ta đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn hối cải (sự thật là tất cả mọi người đều là kẻ tội lỗi), người đau yếu mới cần đến thầy thuốc.

Chúng ta đã ngạc nhiên khi nghe lời mời gọi của Chúa Giê su: “Các con hãy nhân từ như Cha các con trên trời là Đấng nhân từ, Người làm cho mặt trời mọc lên trên kẻ lành người dữ và làm mưa cho người công chính và hạng bất lương”, đó là một sự thật xảy ra từ thuở tạo dựng cho đến hôm nay. Nhưng tình thương đó, khi được diễn tả qua một dụ ngôn với những tình tiết rất cụ thể, lại làm cho chúng ta ngây ngất về tình thương bao la của Cha trên trời. Xin Chúa biến đổi lòng con để mỗi ngày con trở nên giống Chúa hơn về sự nhân từ và tin tưởng hơn vào tình thương xót Chúa dành cho từng tâm hồn.

Tình tiết thứ nhất là Thiên Chúa tôn trọng tự do của con người. Hai món quà quý nhất mà Thiên Chúa ban cho con người là tự do và thời gian, ở đây chúng ta chỉ nói về tự do. Một nhà tu đức đã nói: “khi ban cho con người tự do, Thiên Chúa dường như tự trói tay chân mình lại để hạn chế sự can thiệp của mình”. Bạn đã bao giờ cảm thấy buồn khi người con hay người em không nhờ mình giúp một tay vào công việc của nó chưa? – Dù bạn rất muốn giúp, biết rằng sự trợ giúp đó sẽ rất tốt cho vấn đề, nhưng nếu ‘người nhỏ’ không nhờ thì bạn không thể làm gì được, vì tôn trọng tự do của họ. Thiên Chúa cũng buồn lòng như vậy khi con người không cho Chúa can thiệp vào đời mình, khi họ chẳng màng đến cơn khát tình của Chúa. Cánh cửa của họa sĩ Hunt vẽ thiếu tay cầm, vì cánh cửa tâm hồn phải được mở từ bên trong. Người con thứ đòi chia gia tài, rời nhà ra đi, người cha không thể ngăn cản, dù buồn và lo trong lòng. Buồn vì con bất hiếu, buồn vì con không hiểu hết tình thương của mình – không hạnh phúc khi ở lại trong nhà, buồn vì con sẽ khổ và vấp ngã.




 Khi người con thứ trở về, dù còn ở rất xa, người cha đã trông thấy, ông chạy ra đón, ôm hôn. Từng ấy chi tiết đã diễn tả sự mòn mỏi mong chờ và chủ động tha thứ - đón con trở về, dù con chưa mở miệng xin lỗi – dù con không xứng đáng. Có một người mẹ, khi nghe tin con mình bị kết án tử, đã tìm đến với nhà vua để xin sự khoan hồng tha thứ; nhà vua trả lời: con bà không đáng được khoan hồng; bà mẹ mới đáp lại: tôi không xin sự công bằng, vì con tôi không xứng đáng, nhưng tôi xin sự thương xót. Câu hội thoại của người con thứ thiếu một câu mà nhiều khi ta không để ý, người cha dường như đã bịt miệng cậu lại để không phải nghe câu đó: “Xin cha xử với con như một người làm công”. Thiên Chúa không muốn một ai trong chúng ta trở thành kẻ làm công, mà là những người con. ‘Làm con cái Thiên Chúa’ làm nên bản chất của người Ki tô hữu, phẩm vị này là một sự tôn vinh cho Thiên Chúa Tình Yêu (Ngài yêu hết mọi người), là căn bản để nhìn nhận mọi người là anh em và bình đẳng với nhau trước mặt Thiên Chúa. Đặc ân được làm con cái Chúa tạo nên niềm vui cho người Kitô hữu, dù tôi tội lỗi - tầm thường - nhỏ bé…thì tôi vẫn hạnh phúc vì được làm con cái Thiên Chúa. Hãy để ý đến vài chi tiết khác: chiếc áo đẹp nhất, nhẫn, dép… đó là những chi tiết phục hồi quyền làm con; con bê béo: các gia nhân đều biết rõ con bê được vỗ béo để dành riêng cho bưã tiệc … Tất cả chi tiết này nói lên sự chuẩn bị từ trước, sự mong chờ, và bây giờ là niềm hạnh phúc vỡ bờ khi người con trở về.

Người anh cả nổi giận và không chịu vào nhà. Vì sao thế? - Anh ta không muốn nhìn nhận lại người em, anh ta ghen tị vì sự đón tiếp linh đình của người cha. Thằng em hư hỏng tội lỗi lại làm thịt con bê béo (con bò con) trong lúc nghiêm túc như mình mà một con dê nhỏ cũng chẳng có, thật bất công, và tước vị ‘người làm công’ lại được người anh cả thốt ra, thật đáng buồn. Người cha nói với anh ta: con à, con hằng ở với cha – mọi sự của cha đều là của con (tình thương) nhưng phải vui mừng vì em con trở về. Thánh Luca kết thúc ở đó, không biết người anh có vào nhà hay vẫn cứng lòng mãi cho đến hôm nay? Chúa Giê su đã nói đến nghịch lý này: Ông Gioan đến không ăn không uống thì các ông bảo ông ta bị quỷ ám, Con Người đến có ăn có uống thì các ngươi lại bảo hạng ham mê ăn uống… để rồi các ông vẫn không chiu ăn năn hối cải. Khi bị treo trên thập giá, họ vẫn cứng đầu và khích bác Chúa: nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.



Ngay trong tâm hồn chúng ta vẫn tồn tại hình ảnh của cả hai người con. Chúng ta vẫn thường lạm dụng tự do để làm điều dữ, chiều theo dục vọng - xúc phạm đến lề luật Chúa dạy, chúng ta lần lữa trở về khi chưa cùng đường. Và có lẽ chúng ta giống với người con cả hơn, vì mình không xa Giáo hội, không phạm những tội tày trời, không bất lương, nhưng lại mang tâm trạng coi Chúa là ông chủ còn mình là kẻ làm công, chúng ta thường để ý đến quà tặng hơn là Đấng Tặng Quà. Hãy trở về sống trong tình nghĩa cha con và anh em với nhau. Hãy tạ ơn Chúa mỗi ngày vì Con Thiên Chúa đã chết vì yêu tôi. Hãy rộng lượng với anh em, vì Thiên Chúa đã tha thứ cho tôi rất nhiều tội – rất nhiều lần, còn tha mãi cho đến ngày tôi lìa cõi thế.

 

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2025

Ăn năn sám hối

 



Mùa chay là mùa của ăn năn sám hối, vì thế các bài đọc trong phụng vụ trong suốt mùa này không ngừng nêu lên các khía cạnh của sự trở về với ân tình Thiên Chúa. Có thể nói ‘ăn năn sám hối’ cũng là một sứ điệp lớn của Ki tô giáo, giống như những sứ điệp khác như đau khổ, tình yêu, thập giá và phục sinh. Trong 20 mầu nhiệm của kinh mân côi có 3 mầu nhiệm nhắc đến việc ăn năn sám hối: Thứ 1 mùa Thương (Ta hãy xin cho được ăn năn tội nên), Thứ 3 năm sự Sáng (Ta hãy xin cho được ơn cải sửa tâm hồn), thứ 1 năm sự mừng (Ta hãy xin cho được sống lại thật về phần linh hồn).

Và 3 bài đọc Chúa nhật 3 Mùa Chay năm C cùng nói về chủ đề ăn năn sám hối. Bài đọc 1: ông Moi sen được Chúa kêu gọi trở thành người lãnh đạo đưa dân Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập tiến về vùng đất hứa, trải qua cuộc hành trình sa mạc để thanh luyện – hướng đến việc ký kết giao ước Sinai. Bài đọc 2: Dân Do Thái không sống đẹp lòng Chúa trong cuộc hành trình Sa mạc, họ lẩm bẩm kêu trách Chúa và chiều theo những dục vọng của họ - kết quả là đa số những người già trong họ không được tiến vào đất hứa. Bài học của họ đáng cho chúng ta suy gẫm: “ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã”. Bài Tin Mừng (Lc 13, 1-9) nói với chúng ta rằng: đừng tưởng rằng mình tốt hơn những người bị giết bởi quan Philatô và bị tháp Siloe đổ xuống. Chúa nhấn mạnh đến 2 lần: “Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, các ngươi cũng bị chết hết y như vậy”. Chúa không nói đến cái chết thể lý, nhưng đúng hơn là cái chết đời đời, như chiếc lưới sẽ ập xuống khi đến thời của nó. Điều Chúa muốn nói ở đây là sự bất ngờ của những biến cố và của những cái chết, dù hiểu theo nghĩa nào.

 Dụ ngôn cây vả nói lên sự kiên nhẫn của Thiên Chúa, đã 3 năm Ngài tìm trái nơi cây vả mà không thấy trái, tuy vậy Ngài vẫn tiếp tục chờ đợi thêm nữa, vẫn còn hy vọng - với sự can thiệp của người làm vườn Giê su. Dụ ngôn muốn nói với ta rằng: Chúa vẫn mong mỏi từng ngày đời ta sinh hoa trái mến Chúa yêu người, những hoa trái nhân đức - hơn là sống cằn cỗi mà không sinh ích cho ai. Tâm lý thường tình ta hay nghĩ rằng: còn lâu ta mới chết hoặc ta sẽ được khoan hồng như người trộm lành trên thập giá. Bạn đã bao giờ trải qua tình trạng hôn mê chưa, lúc thập tử nhất sinh đó, ta chỉ lo những chuyện ‘gì đó’ mà chẳng bận tâm đến phần rỗi mình. Vậy, đừng chủ quan với đời sống linh hồn, vì sống sao chết vậy: nếu sống thánh ta chết thánh, nếu sống trong tội ta ra đi trong tội, nhiều khi không có một giây ân huệ để dọn mình chết lành. Sách tu đức dạy rằng: Hãy lo liệu để luôn sống trong tình trạng sạch tội trọng, xưng tội trọng càng sớm càng tốt.

Ăn năn sám hối là nhu cầu thiết yếu của linh hồn: sống tốt giây phút hiện tại, trân quý những gì mình đang có, nỗ lực vươn lên từng giây phút sống. Chúa chỉ cần có thế. Đừng quá đánh giá cuộc đời dựa trên thành công và mong ước làm những chuyện lớn lao, vì chuyện lớn lao chỉ dành cho một số người, còn đa số chúng ta chọn con đường nên thánh trong việc chu toàn bổn phận hằng ngày. Các tu sĩ dù thuộc dòng kín hay dòng hoạt động, đều có chung một ơn gọi là “nên hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo, đều có một đường hướng nên thánh là ‘Ora et labora’ – cầu nguyện và hoạt động. Và có thể nói thêm: các linh mục và người giáo dân cùng có chung một ơn gọi là: nên hoàn hảo như Cha trên trời. Chu toàn việc bổn phận hằng ngày là cách chắc chắn nhất tiến bước trên con đường nên thánh.




Cuộc sống của mỗi người trên trần gian có thể ví như một cuộc hành trình sa mạc tiến về quê trời. Nói đến sa mạc là nói đến thử thách và thanh luyện, để niềm tin - đức cậy và lòng mến được tinh ròng. Đã là thử thách thì có kẻ thắng vượt được và có kẻ vấp ngã - dẫn đến không sống đẹp lòng Chúa. Hãy cộng tác với ơn Chúa, hãy nguyện xin sự trợ giúp của Chúa Giê su – Ngài không ngại vất vả để chăm sóc cho tâm hồn ta trổ sinh những hoa quả tốt đẹp, vì chính Chúa đã yêu ta đến hy sinh chính mạng sống mình. Đừng mất hy vọng vào chính bản thân mình và vào tha nhân, vì ơn thánh Chúa không ngừng tác động, để đêm hay ngày hạt cải cứ âm thầm mọc lên, với điều kiện là bản thân mỗi người cũng hãy nỗ lực thay đổi cuộc sống - ăn năn sám hối để nên tốt hơn mỗi ngày.

Chủ Nhật, 16 tháng 3, 2025

Lòng nhân từ

 



Tin Mừng Thánh Luca kết thúc loạt bài dài những lời dạy của Chúa với các Ki tô hữu: họ phải công chính hơn các biệt phái và luật sỹ, đừng khoe khoang khi cầu nguyện - ăn chay- bố thí, đừng xét đoán và kết án anh em, hãy yêu kẻ thù và tha thứ - cầu nguyện cho kẻ làm hại mình. Và hôm nay (6, 36-38) như một kết luận: “các con hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng nhân từ”. Nhân từ được định nghĩa là có lòng thương người và hiền lành.

Không bao giờ con người hiểu thấu lòng nhân từ của Thiên Chúa, vì cõi lòng hẹp hòi của phận người. Tin Mừng đưa ra cho ta một lý lẽ rất đáng thuyết phục: “Người làm mưa và cho mặt trời chiếu sáng trên kẻ lành người dữ”. Chỉ từng đó thôi, chúng ta đã không hiểu thấu và thực hành được, vì cái hữu hạn của con người. Thử nghĩ xem: nếu ta có quyền trên vạn vật, có quyền ban phát ân lộc cho muôn loài thì biết bao xáo trộn và thiên vị xảy ra ngay, cứ xem các đế chế và quốc gia mạnh luôn cạnh tranh để bá chủ thiên hạ, họ luôn gây khổ cho những nước yếu bằng sự bóc lột, nô lệ. Bạn thử nghĩ xem: ân lộc Chúa ban cho ta luôn dồi dào phong phú đến nỗi ta không nghĩ là ơn – mà chỉ là một sự tự nhiên như:  không khí ta thở, mặt trời cứ chiếu sáng, bao nhiêu quặng mỏ trong lòng đất cho con người hưởng dùng. Đó là sự rộng lượng của Đấng Toàn năng, con người luôn phải cúi đầu cảm tạ.

Sự hiện diện và bao bọc của Chúa với cuộc sống từng người và cả thế giới cũng bao trùm ta như không khí vậy, nhưng mấy khi ta cảm nghiệm được? Hơn bất cứ cha mẹ trần gian nào, Thiên Chúa dẫn bước tâm linh của mỗi người: ngay cả một ý hướng ngay lành, một sự soi sáng khi ta đọc một đoạn Kinh Thánh, ơn nâng đỡ khi ta tụ họp với cộng đoàn, ngay cả một câu chuyện và sự gặp gỡ một ai đó… cũng nằm trong sự an bài lạ lùng của Người. Trong tác phẩm ‘Tôi dám gọi Người là cha’ có diễn tả cảm nghiệm thiêng liêng của một người Hồi giáo trở lại Ki tô giáo (Tin Lành) rất sống động. Chị ta được dạy rằng: nếu cần một sự soi sáng hãy thưa chuyện với Chúa như Cha mình, chị rất xúc động và cảm nghiệm được tình thương và bao phủ của Chúa, đã rửa tội, chấp nhận sự tẩy chay của dòng tộc – của cả làng – sự đe dọa bị giết.. Đôi khi, chúng ta quên mất sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống mình, Chúa bị nhốt trong nhà thờ như một người tù, còn mọi lo toan cuộc sống - những đau khổ, bệnh tật- những lời nói và việc ta làm chẳng liên quan gì đến Chúa cả, nếu như vậy ta hơi giống người vô thần rồi đó.



Trong cuộc biến hình trên núi, lời Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe Lời Người”. Có một điều quan trọng mà nhiều người giáo dân chưa làm được, là đọc Lời Chúa hằng ngày. Có nhiều cách đọc: có thể mình đọc theo thứ tự phần Cựu Ước hay Tân Ước, có thể mình đọc những trang mạng có bài suy niệm Tin Mừng hằng ngày, và tôi nghĩ cách hay nhất là mình đọc kỹ các bài của ngày lễ hằng ngày – đọc kỹ - ghi nhớ và thuộc lòng một vài câu quan trọng – từ từ mình sẽ có một số vốn cần thiết – và những câu Kinh Thánh này sẽ chợt đến với ta trong những tình huống cuộc sống… đó là hoạt động của Chúa Thánh Thần.

Hãy chiêm ngắm gương nhân từ của Chúa Cha, gương hy sinh của Chúa Con và cầu xin ơn Chúa Thánh Thần để có thể tiến lên từng bước trên con đường yêu thương tha nhân. Đừng ghét bỏ ai cả, tốt hơn là cầu nguyện cho những người chưa tốt như ta nghĩ.  Đừng nghĩ rằng mình bị oan ức và bị mọi người xử ép để rồi tẩy chay họ khỏi cuộc sống, tốt hơn hãy thay đổi lòng mình – thay đổi cách suy nghĩ của mình để có thể sống nhân từ hơn với anh em.

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2025

Quê trời

 

 



Ba bài đọc Chúa Nhật thứ 2 Mùa Chay nói đến một niềm hy vọng về một vùng đất mới và một thực tại đáng mong chờ, đó là quê trời.

Ông Abraham được Chúa kêu mời rời bỏ vùng đất cũ đến định cư ở vùng Ca na an. Ông tin vào Lời Chúa hứa và đã lên đường theo tiếng gọi – dù chưa biết tương lai sẽ đi về đâu, vì thế ông được kể là người công chính. Về sau, ông còn được Chúa hứa về một dòng dõi đông đúc như sao trên trời – như cát dưới biển, vậy mà mãi đến già gần 100 tuổi mới có được một mụn con, Chúa lại còn yêu cầu ông sát tế người con ấy. Abraham không do dự khi đưa tay giết chết con mình, nhưng rồi Thiên sứ Chúa đã can ngăn giữ tay ông lại. Ông Abraham được kể là cha của kẻ tin là vậy. Vài chi tiết của bài đọc sách Sáng Thế làm chúng ta liên tưởng đến cuộc biến hình của Chúa Giê su: vẻ sáng chói của thân xác Chúa là phản chiếu của đức tin ngời sáng của Con Thiên Chúa khi sắp trải qua cuộc xuất hành, hầu dẫn đưa một đoàn em đông đúc từ cõi chết về cõi sống; Chúa Cha xác nhận địa vị và công trình cứu độ Chúa Con sắp thực hiện, giống như sự xác nhận của Chúa trên các con vật được ông A bra ham sát tế. Chỉ có điều là khi Con Thiên Chúa hiến mình trên thập giá, không hề có một sự can ngăn của một vị thiên sứ, như trường hợp hiến tế của I sa ac.

Niềm tin vào quê trời mai sau, vào việc có linh hồn bất tử đã dẫn đến 2 thái độ sống khác nhau. Thánh Phao lô nói tới thái độ đáng buồn của một số người sống thù nghịch với thập giá Chúa Ki tô, họ chỉ ham mê những của đời này, chúa tể của họ là cái bụng. Thánh nhân khuyến khích chúng ta hãy bắt chước ngài và những người sống giống như ngài: sống kết hợp với Đức Ki tô, biến đổi nên giống Chúa Ki tô, trong niềm mong chờ quê hương trên trời. Bạn có để ý không, trong bản kinh năm thánh, tuy ngắn gọn mà đã có 3 lần nhắc tới quê trời: “Xin cho ơn đức tin và ngọn lửa đức ái khơi dậy trong chúng con niềm hy vọng hồng phúc hướng về Nước Cha trị đến/ Xin cho những hạt giống Tin Mừng biến đổi từ bên trong nhân loại, trong khi vững lòng mong đợi trời mới đất mới/ Xin cho ân sủng của năm thánh khơi dậy trong chúng con niềm khao khát kho tàng ở trên trời.” Chúng ta là những người lữ hành của hy vọng: với ơn Chúa, chúng ta nỗ lực xây dựng quê hương trần thế, chúng ta nỗ lực trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki tô, nhưng niềm hy vọng ở trần gian chỉ là tương đối. Niềm hy vọng chỉ trọn vẹn khi mỗi người tiến vào nước trời, được chiêm ngắm Thiên Chúa diện đối diện. Thánh Phaolô nói với chúng ta: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban tặng trên quê trời. 



Chúa Giê su đem theo 3 môn đệ lên núi, Chúa cầu nguyện và trong lúc cầu nguyện thì dung mạo Chúa biến đổi khác. Có vài câu hỏi liên quan đến cuộc biến hình: mục đích của việc biến hình là gì? , có phải Chúa tự làm phép lạ cho mình được sáng chói? , tại sao lại có ông Moisen và Ê lia? -  Nhiều người cho rằng Chúa biến hình là để củng cố niềm tin các môn đệ vì Chúa sắp trải qua cuộc khổ nạn trên thập giá. Khi cầu nguyện, Chúa kết hiệp trọn vẹn với ý định cứu độ - trong tình yêu dâng hiến để cứu chuộc nhân loại, chính sự sáng chói của niềm tin và lòng mến rực cháy trong lòng đã biến đổi dung mạo Chúa, tựa như dung mạo sáng chói của ông Moi sen sau mỗi lần đàm đạo với Chúa. Ông Moi sen và ông Elia là hai nhân vật lớn của Cựu Ước: Ông Moi sen là người dẫn dân riêng Chúa xuất hành khỏi Ai cập để tiến về đất hứa, là người ký kết giao ước Si nai; còn ông Ê lia là tiên tri lớn của Chúa, ông đến để chỉnh đốn mọi sự và ông về trời trên một cỗ xe bằng lửa. Chúa Giê su trổi vượt hơn hai vị của Cựu Ước: Chúa là Con Thiên Chúa làm người để đưa con cái trở về với Thiên Chúa, Chúa Giê Su đã dâng chính mình làm của lễ cứu chuộc, ký kết giao ước mới bằng máu châu báu của mình, nhờ đó con đường về trời đã rộng mở cho mọi người thuộc mọi dân tộc trên trần gian này.

Chúa biến hình mời gọi mỗi người chúng ta hãy vâng nghe Lời Con Chúa dạy, đừng sống thù nghịch với thập giá khi mê say những của cải trần gian mà quên lãng quê trời. Chúng ta là những người lữ hành hy vọng, chân bước đi trên mặt đất nhưng lòng hướng về quê trời. Chỉ khi gặp gỡ và tiếp xúc với Chúa, ái mộ những sự trên trời, dung mạo và nếp sống chúng ta mới rực sáng niềm vui và hạnh phúc là phản ảnh của hạnh phúc thiên đàng. Ước mong rằng: niềm hy vọng quê trời sẽ chiếm đoạt lòng ta khi trải qua những gian khổ trần gian, và khi giờ chết đến, niềm mong mỏi quê trời sẽ chiến thắng nỗi đau và những nỗi sợ khác. Amen.

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2025

Cám dỗ

 



Nhiều người cho rằng: thời đại văn minh như hôm nay mà còn nói đến chuyện ma quỷ ư? – Đúng vậy, dựa vào Kinh Thánh, chúng ta biết có ma quỷ. Đó là các thiên thần được Chúa tạo dựng nhưng đã nổi loạn không vâng phục Chúa. Dựa vào thực tế cuộc sống, mỗi người chúng ta cũng có một nỗi sợ ma quỷ, vì nhiều lần mình cũng đã từng bị cám dỗ và sa ngã, và hằng ngày vẫn bị cám dỗ nghiêng chiều về đàng xấu xa.

Ba cơn cám dỗ mà Tin Mừng Luca đưa ra hôm nay (4, 1-13) là những cơn cám dỗ điển hình của con người mọi thời. Cơn cám dỗ thứ nhất là thỏa mãn những nhu cầu thuộc bản năng con người như: ăn uống, thỏa mãn xác thịt, được yêu mến, được an toàn; cơn cám dỗ thứ hai là về lợi lộc vật chất và sở hữu, vì chúng đảm bảo cho cuộc sống được an toàn và giúp đáp ứng những nhu cầu trên; và cám dỗ thứ 3: thể hiện quyền lực, đi trệch con đường Chúa Cha đã vạch ra. Câu kết của Tin Mừng làm chúng ta phải dừng lại và suy nghĩ: ma quỷ rút lui, chờ dịp thuận tiện.

Các nhà tu đức nói với chúng ta rằng, ma quỷ rất tinh quái, chúng đủ kiên nhẫn và đủ mưu lược để cám dỗ được nhiều người, mỗi người mỗi chiêu thức và mỗi thời điểm lại có cơn cám dỗ khác nhau. Đối với người non yếu trong đường tu đức thì chúng chỉ cần dùng bài vở cũ như lòng tham và nhục dục, nóng nảy, kiêu ngạo là đủ. Đối với người tiến bộ trên đường nhân đức thì cơn cám dỗ xuất hiện dưới nhiều hình thức tinh vi hơn. Khi người ta nghèo đói thì ma quỷ đưa ra cơn cám dỗ tham lam, ghen tị, oán trách Chúa để mất lòng tin vào Người. Khi người ta giàu có thì ma quỷ lại cám dỗ tính khoe khoang, khinh thường người khác, ích kỷ, cậy của để mất lòng tin vào Chúa. Khi người ta khỏe mạnh và thành công thì ma quỷ dụ họ ăn chơi đua đòi, khi ngã bệnh thì ma quỷ lại cám dỗ người ta thất vọng, tìm cách giải thoát mình như cách trừng phạt Chúa và những người thân. Chuyện kể rằng: ma quỷ nhóm họp đại hội bàn về việc cám dỗ một vị tu sĩ cao niên và rất đạo đức, những cơn cám dỗ về tình dục và của cải đều vô ích, nên cuối cùng tên tướng quỷ mới ra tay, nó tiến đến vị tu sỹ đang cầu nguyện, nó rỉ tai nói một câu thôi, và vị tu sỹ sa sầm nét mặt – lòng hoang mang. Câu nói đó là: “ngài xem, bạn bè của ngài đã là giám mục và tu viện trưởng cả rồi”. Vị tu sĩ bị trúng kế về sự thành công và danh tiếng.

Khi nói về những cám dỗ về tình dục, một nhóm bạn 'ta – ru' nói đùa với một linh mục bạn mình rằng: có lẽ các linh mục bị cám dỗ nặng nề về sắc dục? – vị linh mục hóm hỉnh trả lời: khi một người thường xuyên dùng thịt thì lại bị cám dỗ muốn biết về nhiều thứ thịt khác nhau, còn người thường xuyên dùng cá thì lại ít bị cám dỗ trên. Sách tu đức dạy rằng: mỗi người, dù thuộc khuynh hướng tình dục nào (mạnh, yếu, khỏe mạnh hay bệnh tật, đồng tính hay dị tính) đều phải chiến đấu với bản thân để từ bỏ mình mà bước theo Đức Kitô. Trong truyện kể về Thánh Phanxico Assidi, dù đã bỏ hết gia đình, tài sản, sống kham khổ ăn chay hãm mình, nhưng có lần thánh nhân vẫn bị cám dỗ về tình dục, ngài đã phải lăn lộn trên tuyết để cho cái lạnh thấu xương đó giúp cơn cám dỗ tan đi. Còn Thánh Pio 5 dấu, dù đã tiến xa trên đường nhân đức, được Chúa in năm dấu thánh từ lâu, nhưng thánh nhân vẫn thường xuyên bị ma quỷ cám dỗ: lúc thì bị chúng tấn công bằng những nắm đấm, lúc thì chúng giả danh cha bề trên để truyền cho thánh nhân phải giảm bớt việc ăn chay hãm mình, có lúc chúng lại hiện hình thành một cô gái xinh đẹp lả lơi vuốt ve thân xác ngài… và dĩ nhiên, cha thánh đã phải kêu cầu sự trợ giúp của Chúa để xua đuổi những cơn cám dỗ.

Đức Phanxicô dạy: Đừng quá sợ hãi ma quỷ, vì nó như con chó bị cột xích, đừng tiến gần và đừng nói chuyện với nó thì nó không làm hại được mình. Điều đó muốn nói rằng: Chúng ta phải tránh dịp tội, ví dụ như những bạn bè xấu, những cuộc tụ họp không lành mạnh, những vị trí đặt máy tính, những thói quen xấu, những chất kích thích. Ai trong chúng ta cũng từng nghiệm được rằng: mình chẳng mạnh mẽ gì, trên hết mọi sự phải biết kêu cầu sự trợ giúp của Chúa. Chúa dạy ta: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.




Chúa Giê su đã dùng Lời Chúa để đáp trả ma quỷ, và dĩ nhiên nhân đức của Chúa đã khiến ma quỷ không thể làm Người xiêu lòng được. Chúng ta hãy siêng năng học hỏi và suy gẫm Lời Chúa để Lời Chúa soi bước ta đi và sinh hoa kết trái trong lòng ta. Ma quỷ vẫn tiếp tục mỗi ngày cám dỗ ta về của cải, danh vọng, sắc dục, thành công và bỏ cuộc trong những việc phục vụ - chán việc tiến bước trên đường lành. Mỗi ngày, bạn và tôi hãy cậy dựa vào ơn Chúa để chống lại cơn cám dỗ sống tầm thường - ai sao tôi vậy, để làm được điều gì đó cho Chúa và Giáo hội. Và đặc biệt trong thời đại chúng ta, nổi bật là những cơn cám dỗ về sự thành công như thước đo giá trị của một người; ích kỷ khép kín lòng mình – thỏa nhu cầu mình mà không cần tiếp xúc với tha nhân; thiếu kiên nhẫn – muốn mọi sự phải có liền; thiếu sự chịu đựng và xót thương với tha nhân quanh mình; thiếu đời sống nội tâm kết hợp với Chúa Giê su – cho mình là tự đủ, tự khoe và tự sướng. Lời Chúa dạy: Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ, xin xót thương chúng con, lạy Chúa.

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2025

NỀN TẢNG VÀ CÙNG ĐÍCH CỦA CUỘC LỮ HÀNH HY VỌNG

 


 Với chủ đề của năm Thánh 2025 :"Những người hành hương của hy vọng". Xin trích một bài viết ngắn  của tác giả Phaolô Phạm Xuân Khôi  diễn tả khá đầy đủ ý nghĩa của năm Thánh này.

 





Trong cuộc hành trình đức tin, các Kitô hữu được mời gọi sống như những lữ khách trên con đường hướng về Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều người trong thế giới ngày nay đã đặt hy vọng của mình vào những điều tạm bợ: của cải vật chất, quyền lực, danh vọng, hay những giải pháp nhân tạo để đạt được hạnh phúc. Những loại "hy vọng sai lầm" này thường dẫn đến thất vọng, vì chúng không thể đáp ứng được khát vọng sâu xa nhất của tâm hồn con người.

Hy vọng đích thực không bắt nguồn từ những điều chóng qua, mà từ lời hứa vĩnh cửu của Thiên Chúa. Chủ đề "Những Người Lữ Hành Hy Vọng" trong Năm Thánh 2025 nhấn mạnh đến vai trò của niềm hy vọng đặt nơi Đức Kitô, giúp chúng ta vượt qua những thử thách và tìm được nguồn vui thật sự trong hành trình tiến về sự sống đời đời..

 

Hy Vọng Bắt Đầu từ Ý Thức về Ơn Cứu Độ

Hy vọng đích thực bắt nguồn từ việc ý thức rằng con người không thể tự cứu mình mà cần đến ơn cứu độ của Thiên Chúa. Tội Nguyên Tổ đã để lại một vết thương sâu xa trong bản tính con người, khiến chúng ta dễ sa ngã và đối diện với sự yếu đuối. Hội Thánh dạy rằng, việc nhận thức rõ ràng tình trạng tội lỗi và sự cần thiết của ơn thánh là bước đầu để xây dựng niềm hy vọng. Dẫu thế giới hiện đại thường cắt nghĩa tội lỗi qua các yếu tố tâm lý hoặc xã hội, nhưng Hội Thánh khẳng định rằng chỉ khi con người tìm đến Thiên Chúa, chúng ta mới có thể vượt qua sự yếu đuối nội tại và tiến bước trong niềm hy vọng.



 Ơn Cứu Chuộc qua Đức Kitô

Trước tình trạng của con người, Thiên Chúa đã đáp lại bằng cách ban chính Con Một Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Qua cuộc Thương Khó, Cái Chết, và Phục Sinh của Người, Đức Kitô đã mở ra con đường cứu rỗi cho nhân loại. Người không loại bỏ đau khổ mà biến đổi nó, dạy chúng ta cách nhìn thấy ý nghĩa trong những thử thách và kết hợp đau khổ của mình với cuộc Khổ Nạn của Người. Bí tích Thánh Thể, như Hội Thánh dạy, là tột đỉnh của việc cứu chuộc, trong đó chúng ta được nuôi dưỡng để sống trong niềm hy vọng. Bí tích này không chỉ ban ân sủng mà còn là lời mời gọi chúng ta kết hợp với Đức Kitô trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

Thánh Thể là Lương Thực Nuôi Dưỡng Lữ Khách

Bí tích Thánh Thể đóng vai trò trung tâm trong hành trình hành trình hy vọng. Trong Bí tích này, Đức Kitô thật sự hiện diện, ban chính Mình và Máu Người để nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Khi rước Mình Máu Thánh Chúa trong các Thánh Lễ, chúng ta không chỉ tham dự vào Hy lễ của Chúa mà còn được kết hợp mật thiết với Người, nhận được sức mạnh để đối diện với những khó khăn trong cuộc sống. Không những thế, Người còn hiện diện liên tục trong các Nhà Tạm để đồng hành với chúng ta. Chúng ta có thể đến tâm sự với Người, than van với Người, hội ý Người, và thậm chí nghỉ ngơi bên Người để được Người bồi dưỡng. Trong một thế giới đầy chia rẽ và tuyệt vọng, Thánh Thể là nguồn hy vọng và hiệp nhất, giúp chúng ta sống yêu thương và làm chứng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại. Nhờ thế chúng ta có thể đem niềm hy vọng này đến cho thế gian qua cách sống của chúng ta trong những tương tác thường nhật.

Hy Vọng Hướng về Sự Sống Vĩnh Cửu

Hy vọng Kitô giáo vượt qua mọi giới hạn của thế gian để hướng đến sự sống đời đời bên Thiên Chúa. Bí tích Thánh Thể là nếm trước bữa tiệc thiên quốc, ở đó Thiên Chúa sẽ xóa đi mọi đau khổ và trao ban cho chúng ta niềm vui trọn vẹn. Trong khi nhiều người thời đại tìm kiếm hạnh phúc nơi của cải hoặc quyền lực, Hội Thánh mời gọi chúng ta làm chứng cho niềm hy vọng đích thực nơi Đức Kitô. Hy vọng này đòi hỏi mỗi người hoán cải và sống đức tin qua cầu nguyện, bác ái, và đời sống hy sinh. Sứ vụ của chúng ta là mang ánh sáng của Tin Mừng đến với mọi người, để họ cũng nhận ra niềm vui và ý nghĩa của cuộc đời.

 Kết luận

Chủ đề "Những Người Lữ Hành Hy Vọng" trong Năm Thánh 2025 là lời mời gọi sống đức tin cách sâu sắc và vững vàng. Hành trình đức tin không tránh khỏi những khó khăn và thử thách, nhưng với niềm hy vọng đặt nơi Đức Kitô, chúng ta được mời gọi bước đi trong tin tưởng và bình an. Thánh Thể chính là nguồn sức mạnh và niềm an ủi trên cuộc hành trình này, giúp chúng ta hướng đến sự sống đời đời. Hãy cùng nhau sống tinh thần lữ hành hy vọng, trở thành ánh sáng thế gian, và dẫn đưa những người khác đến gần Thiên Chúa hơn.