Danh sách Blog của Tôi

Chủ Nhật, 29 tháng 6, 2025

Chuyển cầu

 



Bài trích sách Sáng Thế 16, 18-23 kể lại chuyện ông Abraham chuyển cầu cho dân 2 thành Sodom và Gomora, hầu giúp họ tránh khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, vì tội lỗi của họ quá nhiều. Đây là một đoạn Kinh Thánh rất hay – giúp ta hiểu hơn về sự cầu nguyện cho người khác, gọi là sự chuyển cầu. Chúng ta dừng lại một vài từ được nói đến trong bản văn này.

Kêu thấu. Đức Chúa xuống xem những tiếng kêu than của những người khốn khổ đã thấu đến trời có đúng hay không. Chúng ta đã gặp cụm từ này từ những chương đầu của sách Sáng Thế khi máu của Abel cũng đã kêu thấu trời vì bị Cain giết. Thiên Chúa rất gần gũi với người khốn khổ không chốn tựa nương, những người nghèo và những kẻ bị loại trừ. Khi họ bị ức hiếp, vì không biết cậy dựa vào đâu khác, họ kêu đến trời và trời lắng nghe họ. Bởi đó, Kinh Thánh Cựu ước dạy rằng: đừng giữ tiền công của người nghèo đến ngày mai, đừng lấy áo choàng của người khác vì họ không có gì để đắp qua đêm, 7 năm thì có một năm ân xá tù nhân – tha nợ cho vay – đất nghỉ ngơi, quan tâm đến cô nhị quả phụ và khách ngoại kiều… Hãy học nơi Thiên Chúa sự nghỉ ngơi và lòng thương xót. Ngày hôm nay con người vẫn lên án những hành vi xâm lược, giết hại người vô tội, phá thai, buôn bán nô lệ, đánh cắp cơ phận người khác, án tử hình; còn trên bình diện cá nhân, đừng lừa tình, làm hại người nghèo, đừng làm mất danh dự kẻ khác và vu cáo… vì tiếng kêu của người đau khổ sẽ thấu đến trời cao và Chúa sẽ xem xét. Tôi còn nhớ một lời dạy: Nếu mình lấy một đồ vật của người nghèo, họ càng đau xót thì tội mình càng lớn.



Chuyển cầu. Ông Abraham, cha của kẻ tin, có một mối liên lạc thân tình với Thiên Chúa; thế nhưng chúng ta không thấy ông xin cho có vài đứa con như lời Chúa đã hứa được thành sự, dù đó là điều ông bà đau đáu trong lòng. Nhưng khi nghe biết Chúa sẽ trừng phạt hai thành tội lỗi thì ông liền mở miệng cầu xin, mục đích là chuyển cầu cho họ được tránh khỏi tai họa. Đáng tiếc là ông không dám đi quá giới hạn 10 người công chính, một phần ông sợ Thiên Chúa nổi giận, phần khác có lẽ ông không ngờ là trong thành có quá ít người công chính như vậy. Trong việc cầu nguyện, Chúa cũng muốn chúng ta chuyển cầu cho nhau: Lạy Cha chúng con, xin cho chúng con… Có câu chuyện kể về bàn tiệc thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau một điểm duy nhất: ở thiên đàng người ta quan tâm và giúp đỡ nhau – trái lại ở hỏa ngục thì ai nấy chỉ ích kỷ lo cho mình. Đừng nghĩ chết rồi mới có thiên đàng hỏa ngục, ngay từ đời này khi ta yêu thương và quan tâm nhau thì đã có thiên đàng rồi. Có câu chuyện kể về một vị tu sĩ rất đạo đức, đã nhiều lần thiên sứ đến muốn cất mạng ông để đưa ông về trời, nhưng ông cứ khất lần vì đang bận việc bổn phận và đang phục vụ cộng đoàn; thế rồi một hôm khác, lúc ông rảnh rỗi thì thiên sứ lại đến, ông xin sẵn sàng ra đi, nhưng thiên sứ mỉm cười hỏi lại: “Chứ bấy lâu nay ngài tưởng mình đang ở đâu?”. Mỗi người hãy là người chuyển cầu cho nhau, là người canh giữ phần rỗi của nhau, đó là bổn phận tự nhiên của những người con của Một Cha trên trời. Đặc biệt là các linh mục và người lãnh đạo cộng đoàn, người cha mẹ trong gia đình … là người chuyển cầu và canh giữ phần rỗi cho các thành viên mình chịu trách nhiệm.



Lời chuyển cầu của ông Abraham làm chúng ta liên tưởng đến lời khẩn nài của ông Moi sen khi dân chúng thờ con bò vàng: Xin Chúa thương xót, xin nhớ lại lời hứa của Chúa (cho mình trở thành cha nhiều dân tộc và nhiều dân tộc qua mình được chúc phúc/ sẽ bao bọc che chở dân Chúa chọn), nếu Chúa nổi giận trừng phạt thì không được đâu (người công chính bị giết lây/ dân ngoại sẽ chê cười khi Chúa đem dân vào sa mạc để tru diệt họ), chính sự kiên trì để nói khó với Chúa đã làm Thiên Chúa tươi nét mặt. Các nhà tu đức dạy rằng: cầu nguyện không làm cho Thiên Chúa thay đổi bằng những lý luận sắc bén, nhưng làm cho lòng người thay đổi, vì khi nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm cho dân và cho mình, mình sẽ tin cậy hơn và yêu mến Chúa hơn, và đó là những điều cần thiết để Thiên Chúa thực hiện ý Ngài.

 

 

Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2025

Ơn thánh

 



“Bàn thạch Phê rô trường tồn thay, đồng trụ Phao lô trường tồn thay” (Hai người tiên phong) đã nói lên vai trò của hai vị tông đồ: Ngôi nhà Giáo hội được xây trên nền đá Phê rô và những trụ đồng vững chắc Phaolô là rường cột của tòa nhà đó. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta cùng chiêm ngắm công trình của ơn thánh, những phép lạ Chúa làm để biến đổi tâm hồn và cuộc đời của hai vị thánh này.

Một giai thoại kể rằng: Khi Chúa Giê su chuẩn bị về trời - mọi sự còn rất dở dang, một vị thiên sứ hỏi Chúa: Chúa có kế hoạch B và C gì nữa không? Chúa Giê su mỉm cười và nói: “Ta tin tưởng vào họ”. Giáo hội lúc đó chỉ vỏn vẹn khoảng vài trăm người, đa số là người thuộc giới bình dân ít học và mất hết tinh thần - nhút nhát sợ sệt người Do Thái; còn ông Saolê, một người thuộc giới Biệt Phái – vì lòng nhiệt thành đang ra sức tấn công những người thuộc giáo phái Giê su. Tuy vậy với ơn Chúa, hai vị tông đồ đã có những bước ngoặt để trở thành những người hoàn toàn thuộc về Đức Giê su Ki tô, dám liều mạng sống mình để làm chứng cho niềm tin của mình.

Một giai thoại được mô tả trong tác phẩm Quo Vadis (Thầy đi đâu) kể về Thánh Phê rô: Lúc ấy tông đồ Phê rô đang rao giảng Tin Mừng ở Roma, cơn bách hại dữ dội của hoàng đế Nê rô xảy ra, nhiều anh em khuyên ông Phê rô nên trốn sang thành khác để duy trì Hội Thánh, nhưng đang lúc ông đi ra khỏi thành thì gặp Chúa Giê su vác thập giá tiến vào thành, ông Phê rô hỏi “Quo vadis” và Chúa trả lời Thầy đi vào thành Ro ma để chịu chết một lần nữa… và thánh Phê rô đã quay trở lại thành Ro ma và chịu tử đạo để làm chứng cho niềm tin vào Chúa Giê su là Con Thiên Chúa, đã chết và sống lại, là Đấng cứu độ duy nhất của trần gian.



Khi Chúa gọi ông Phê rô làm tông đồ, phép lạ mẻ cá lạ - kết quả của sự vâng lời Thầy Giê su - đã làm ông Phê rô thốt lên: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là người tội lỗi”. Chúa đã không loại bỏ ông mà còn phán: “Hãy theo Ta” và Phê rô đã bỏ nghề nghiệp – vợ con để làm môn đệ Chúa. Tuy vậy, ơn Chúa không biến đổi ngay con người mỏng dòn yếu tin thành một tông đồ gương mẫu, các ông còn chậm tin, còn tranh luận cao thấp, còn tự phụ vào sức riêng mình, còn sợ chết… Nhưng một mặt khác của đồng tiền, mặt sáng của ơn Thánh, chúng ta cũng kinh ngạc khi ông Phê rô tuyên tín: bỏ Ngài chúng con biết theo ai – chỉ có Thầy mới đem lại sự sống đời đời, “được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki tô bao nhiêu anh em hãy vui mừng bấy nhiêu để anh em được vui mừng hớn hở vì được chia sẻ vinh quang với Ngài” (1 Pr 4, 13). Chúng ta nhận ra rằng: hành trình theo Chúa, việc biến đổi thành một vị thánh, là một tiến trình bền bỉ của ơn thánh và sự nỗ lực của con người. Hãy học sự kiên nhẫn của Thiên Chúa để có sự nhẫn nại và rộng lượng với anh em.

Còn cuộc đời Thánh Phao lô thì quá nổi tiếng, việc hoán cải từ một người nhiệt thành bắt đạo – trong khoảnh khắc trở thành người rao giảng về Chúa Giê su không phải là quá trình của hoán cải và suy tư thần học mà là sự can thiệp trực tiếp của ơn Chúa, biến ông thành khí cụ của Tin Mừng. Ông Phaolo được Chúa trực tiếp mạc khải về giáo lý, Ngài lui vào sa mạc ( ở ẩn) khoảng vài tuần – liền sau đó Ngài rao giảng về Chúa Giê su một cách dạn dĩ và công khai, khoảng 3 năm sau ngài mới lên Giê ru sa lem để đối chiếu giáo lý mình dạy với ông Phê rô – trong dịp đó ngài còn gặp tông đồ Gia cô bê. Trong thư 2 Cr 11, 18… chúng ta được biết Thánh Phao lô bị tù lâu năm, 5 lần bị đánh 39 roi/lần, 3 lần bị đánh đòn, một lần bị ném đá tưởng chết; 3 lần bị đắm tàu, một đêm một ngày bị lênh đênh biển khơi và biết bao nguy hiểm trên rừng trên biển, chịu nhiều thiếu thốn về thể xác và mối bận tâm về các giáo đoàn. Thánh nhân kể ra một chút cho ta biết (nói như người điên) còn trong thâm tâm, ngài chỉ tự hào về sự yếu đuối và về thập giá Đức Ki tô, vì biết rằng sức mạnh người tông đồ là ở nơi Chúa: vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh.

Mừng lễ 2 thánh Tông đồ, chúng ta ca tụng công trình kỳ diệu Chúa đã thực hiện nơi 2 vị tông đồ: xét theo bên ngoài thì các ngài cũng là những người tội lỗi và yếu đuối, nhưng được cộng tác vào việc rao giảng nước trời là một hồng ân: “khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Trong Logo của năm thánh những người hành hương của hy vọng, có một dòng chữ nhỏ hơn và đôi khi chúng ta không để ý: “CÙNG NHAU LOAN BÁO TIN MỪNG”, câu nói này nói với từng người hãy nỗ lực và cộng tác với nhau làm cho Danh Chúa Gie su vang lên trong nhân loại. Điểm kết luận thứ hai: Giáo hội Công giáo là Giáo hội của Chúa Giê su, Chúa hứa rằng ‘sẽ vững bền’ như ngôi nhà được xây trên nền đá. Xin trích lời của nhà thần học Đức Karl Rahner: “Giáo hội là một bà mẹ nhăn nheo, xin đừng ai nói xấu Giáo hội, vì đó là Mẹ tôi”.

Thứ Sáu, 27 tháng 6, 2025

Chữa lành

 



Trong bài Tin Mừng thứ 7 tuần 12 TN (Mt 8,5-17), kể lại một loạt những phép lạ chữa lành của Chúa Giê su: Chúa phán một lời là người đầy tớ viên đại đội trưởng dù ở xa vẫn được chữa lành, đụng đến tay bà mẹ vợ của ông Phê rô và bà khỏi cơn sốt, chiều đến Chúa chữa lành những người bị quỷ ám và mọi kẻ ốm đau. Thế nhưng, phần kết của bài Tin Mừng lại nói một câu rất lạ: “Để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia ‘Người mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta’.

Chúa dùng quyền năng của Thiên Chúa để xua trừ ma quỷ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền của con người, điều đó đã được kể như một dấu hiệu của Đấng Thiên Sai, như một vị bác sĩ chữa trị cả bệnh thân xác và tâm hồn của con người. Vị bác sĩ dùng thuốc và tài năng để đẩy lui bệnh tật, thế là xong; nhưng nơi Chúa Giê su thì khác, Chúa gánh lấy các tật bệnh của ta và nhờ Ngài mang thương tích mà tất cả chúng ta được chữa lành. Điều này muốn nói lên điều gì?- Thưa: Chúa Giê su là Đấng Cứu Chuộc. Vì loài người đã phạm tội, mà tội mang đến án phạt và sự chết, Chúa Giê su là Adam mới đã gánh lấy những đớn đau nơi thân xác và khổ não trong tâm hồn để giao hòa loài người với Đấng Tạo Dựng và nhờ đó chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa, đồng thừa tự với Đức Ki tô.

Một nhà tu đức dạy rằng: mỗi ngày bạn nên suy ngắm về sự thương khó Chúa Giê su trong 10-15’, để tri ân Chúa và để múc lấy nguồn ân thánh. Để sống hạnh phúc trên cuộc đời này, người ta kể ra 4 kỹ năng: IQ là chỉ số thông minh, EQ là chỉ số tình cảm, cảm thức xã hội và cảm thức về Thiên Chúa; ngày nay con người thường bất hạnh vì cắt đứt mối liên lạc với Thiên Chúa: họ không còn nhạy cảm với sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống, họ không hiện diện trong các cử hành phụng vụ và kết quả là hai bên không thể nói chuyện và hiểu nhau – đến độ không nhận biết nhau khi đến tòa phán xét.

Trong phép lạ chữa lành người đầy tớ viên đại đội trưởng, chúng ta nhận ra 2 chi tiết: thoạt nghe chuyện người đầy tớ bị đau đớn, không cần lời van xin, Chúa nói ‘chính tôi sẽ đến chữa nó’. Điều này nói lên tấm lòng nhân hậu của Chúa Giê su, Ngài muốn chữa lành và cứu giúp con người trong cơn cùng khốn của họ, vấn đề là người con có để cha mình giúp sức hay không. Chi tiết thứ hai là lòng tin mạnh của viên đại đội trưởng: không cần Chúa phải đến tận nơi, chỉ cần Chúa phán một lời thì đứa con mình cũng được khỏe và Chúa đã khen lòng tin như thế. Câu nói của Chúa ‘ông tin thế nào thì được như vậy’ đã được các nhà tu đức diễn tả: “Thiên Chúa hành động tùy theo lòng tin của chúng ta, vì Ngài tôn trọng tự do của con người”. Đối với nhiều người, đức tin là một điều ngoại thân, thêm thắt vào cuộc đời để tạo cho đời một hương vị và một trương mục bảo hiểm, liệu cho ‘vừa vừa phải phải’ cho khoản đầu tư này … kết quả là tôn giáo chỉ mang tính tương đối trong những chọn lựa đạo đức và trong những quan tâm hằng ngày của họ. Lòng mạnh tin phải dẫn chúng ta đến chỗ đặt Thiên Chúa ở vị trí cao nhất trong những quan tâm cuộc sống, yêu mến Ngài trên hết mọi sự và trên hết mọi người, tuân giữ Lời Ngài và phục vụ Ngài trong vai trò và trong kế hoạch yêu thương của Ngài.



Xin Chúa trợ giúp lòng tin yếu đuối của chúng con. Xin cho con cảm nhận lòng thương xót của Chúa rất mãnh liệt và rất đỗi dịu dàng, như tình thương của người cha và của người mẹ với những đứa con được sinh ra trong tình thương và vẫn mãi muốn bao bọc bằng tình thương. Xin cho con biết thưa xin vâng với những điều xảy ra trong cuộc sống, đó là cách trao cho Chúa sự tự do của mình để Chúa có thể hành động và yêu thương con. Amen.

Thứ Ba, 24 tháng 6, 2025

Vật lộn

 



Trong Kinh Thánh Cựu ước (Kn 32) có kể lại cuộc vật lộn của ông Gia cop với sứ thần Thiên Chúa, cuộc vật lộn kéo dài suốt đêm –bất phân thắng bại, và lúc tảng sáng sứ thần đã đá vào gót chân ông Gia cop buộc ông phải buông tay ra, vì thế ông được đổi tên là Israel (người vật lộn với Thiên Chúa) và cho đến ngày nay người Do Thái không ăn gân chân của các con vật. Tôi muốn dùng hình ảnh cuộc vật lộn trên để nói đến cuộc vật lộn trong đức tin của ông Abraham và của hành trình đức tin của từng cá nhân khi bước theo Chúa, Đấng vô hình.

Trong những ngày đầu tuần 12 TN năm lẻ, Giáo hội cho chúng ta nghe về ông Abram: Chúa gọi ông rời quê cha đất tổ đến một vùng đất mà Chúa hứa ban cho ông làm sản nghiệp, Chúa còn hứa ‘ông sẽ trở thành cha nhiều dân tộc, con cháu ông sẽ đông đúc như sao trên trời‘. Ông Abram ra đi mà không biết mình đi đâu, thế nhưng có một điều lạ là đi đến đâu ông cũng dựng bàn thờ để kính Chúa, điều đó chứng tỏ ông có một đức tin vững vàng vào một Thiên Chúa quyền năng, Đấng luôn trung tín và giàu lòng xót thương. Nhưng chính ông Abram đã có một cuộc vật lộn thật sự trong Đức tin với Thiên Chúa. Một hôm, lời Chúa nói: “Đừng sợ, Ta là khiên thuẫn che chở ngươi, phần thưởng của ngươi sẽ rất lớn”, ông Abram chua chát nói: con đã già mà không có con cái, có lẽ con người hầu sẽ thừa kế… ông xin một dấu chỉ bảo đảm cho lời hứa và Chúa đã ghi dấu ấn trên các con vật được ông sát tế. Sau đó, đợi hoài mà không có con, bà Sa rai bảo ông đi lại với người nữ tì mong đứa con này sẽ là kẻ nối dõi, Ismael được sinh ra lúc ông Abram 86 tuổi. Ông Abram 99 tuổi và bà Sara vợ ông 90 tuổi thì Isaac được sinh ra, đây là đứa con của lời hứa: từ người con này sẽ sinh ra một dòng dõi đông đúc mang tên ông, lúc đứa trẻ khoảng 10 tuổi – Chúa lại truyền sát tế nó cho Chúa làm lễ toàn thiêu, vậy mà ông vẫn vâng lời không than trách-ông đưa tay giết đứa trẻ vì tin rằng: Chúa có quyền năng làm cho nó sống lại nếu Chúa muốn, hoặc Chúa có kế hoạch khác tuyệt vời hơn, dù thế nào thì Chúa vẫn là Đấng trung tín và giàu lòng xót thương (Kn 12-18).



Trong toàn bộ Kinh Thánh, người ta thống kê được 365 lần lời Chúa nói với con người: “Đừng sợ”. Trong Kinh Thánh, câu Chúa hứa "Ta ở cùng ngươi" xuất hiện nhiều lần, đặc biệt trong Cựu Ước và Tân Ước. Không có một con số chính xác được ghi lại, nhưng câu này được xem là một lời hứa quan trọng và thường xuyên được Chúa nhắc đến để khẳng định sự hiện diện và đồng hành của Ngài với con người (AI, internet). Nhiều linh mục và những nhà truyền giáo đã chọn câu ‘Ta ở cùng con’ làm châm ngôn sống và tìm được sức mạnh trong những gian lao thử thách. Đức Hồng y FX. Nguyễn Văn Thuận đã trải qua 13 năm tù, trong đó có 9 năm biệt giam, là một chứng nhân đức tin, đã trải qua những thời khắc thất vọng – nhưng đã tìm được an bình khi xác tín việc đang xảy ra là điều Chúa muốn, điều quan trọng là sống tốt giây phút hiện tại, tìm Chúa thì tốt hơn là tìm công việc của Chúa. Điều này cũng có thể áp dụng cho một bệnh nhân, bệnh mãn tính hoặc bệnh nan y, chỉ khi biết chấp nhận bệnh tật như một điều tất yếu của đời người, Chúa cho phép điều dữ xảy ra để giúp con người bám chặt hơn vào Chúa, tự thoát để tìm ý Chúa. Dầu thế nào đi nữa, Thiên Chúa vẫn là Đấng đáng con người dựng bàn thờ tạ ơn, là Đấng luôn đồng hành… chỉ khi con người tuân phục ý Chúa, đặt ý muốn của mình dưới sự an bài của Đấng tối cao thì họ mới tìm được an bình sâu thẳm và đó là điều kiện cần và đủ để Thiên Chúa hành động.

Thư Do Thái diễn tả: “Dù là Con Thiên Chúa, Đức Giê su đã phải trải qua đau khổ để học biết thế nào là vâng phục”(Dt 5, 8). Các nhà tu đức đã dạy: “để sống tinh thần khó nghèo, điều kiện cần thiết là phải sống nghèo và đơn giản; để học đức khiêm nhường, phải biết vui lòng chịu những hiểu lầm và sỉ nhục..”. Hành trình đức tin, tìm kiếm ý Chúa, luyện tập các nhân đức như khiêm nhường và phục vụ của mỗi người đều phải trải qua những cuộc vật lộn giữa cái tôi ích kỷ với lời mời gọi ‘ra đi’ của Thiên Chúa. Khi gặp những thử thách gian truân, hãy xác tín rằng: Chúa có một kế hoạch cho mỗi cuộc đời, lửa thử vàng – gian nan thử đức, Chúa chủ động cắt tỉa cho cành nho sinh nhiều trái hơn, và rằng: ơn Ta đủ cho con, Chúa luôn ở với Ta và là Đấng xót thương. Amen

 

Chủ Nhật, 22 tháng 6, 2025

Thành kiến

 



Theo tự điển, thành kiến là ý kiến nhận xét không hay đã thành cố định, khó thay đổi. Ai trong chúng ta cũng có những thành kiến về người khác, dù có nói ra ngoài miệng hoặc dấu kín trong tiềm thức. Chúa Giê su gọi đó là một trong những ‘cái xà’ nằm trong mắt mình mà mình không thấy trong lúc cứ dễ thấy những ‘lỗi lầm’ rất nhỏ của tha nhân.

Có người nói về tâm lý này bằng hình ảnh: mỗi người đeo hai cái bị, cái trước mặt là để đựng những lỗi lầm của anh em – nên mình luôn nhìn thấy và thấy rất rõ, còn cái bị đeo sau lưng là để đựng những sai lỗi của mình, rất khó thấy và có thể nói là không bao giờ thấy. Thành kiến được ví như chiếc kính màu mình đeo, chính thành kiến làm cho tầm nhìn của ta về người khác mang một màu sắc ảm đạm hay tươi sáng. Chuyện kể rằng: có một người già được xem là minh triết thường ngồi hóng mát dưới bóng cây ở cổng làng, một hôm có một kẻ tha phương đến làng và ngỏ ý muốn ở lại làng một thời gian, anh hỏi cụ già xem tình hình dân làng thế nào trước khi đưa ra quyết định, cụ già mới hỏi anh ‘từ đâu đến và dân ở đó ra sao’, anh cho biết: dân chúng ở đó rất khó ưa, cụ già cho biết: dân ở đây cũng vậy’ và anh lại tiếp tục ra đi; ngày hôm sau cũng có một người lạ mặt khác cũng gặp cụ già với lý do như trên, cũng với những câu hỏi trên và người lạ cho biết: ngôi làng cũ của anh rất đáng sống, dân chúng hiền hòa, anh phải quyến luyến ra đi chỉ vì mưu sinh, cụ già cho biết: ‘dân ở đây cũng giống như vậy’ và anh ở lại trong làng-rất hạnh phúc với chọn lựa của mình. Xin trích một đoạn chia sẻ của cha Minh Anh: “Ma quỷ vui mừng mỗi khi chúng ta nói và hành xử tiêu cực khiến người khác nhụt chí; nó mở tiệc lớn mỗi khi ai đó nói một lời chua cay làm tan nát một cộng đoàn, một gia đình. Vì thế, chúng ta phải tỉnh thức đề phòng và ra sức sống ‘văn hoá khích lệ’. Cha mẹ khích lệ con cái, con cái khích lệ cha mẹ; anh chị em, bạn bè khích lệ nhau để “hoàn thành những gì đã đặt ra”. Bởi lẽ, “Không ai lên thiên đàng một mình!”

Thật đáng sợ khi ta gặp một ai đó, chỉ qua một khắc đồng hồ nói chuyện mà thấy họ chê bai hết người nọ đến người kia về thái độ sống, cách cư xử, cách phục vụ… Tự trong thâm tâm ta đánh giá thấp về người hay phê phán và xét đoán xấu người khác: họ tự tố cáo bản thân họ cũng có những tật xấu mà miệng họ đang dán cho tha nhân, họ kiêu ngạo, họ ganh tị, họ gây bất ổn và chia rẽ trong cộng đoàn, sẽ có ngày họ nói xấu mình và bệnh xét đoán là bệnh hay lây và là một tội lỗi mà người nghe là đồng phạm. Người hay chê sẽ rất ít có lời khen thốt ra từ miệng họ, vì cái tôi họ quá lớn – lớn như một cái xà đến nỗi không còn nhìn thấy bất kỳ vẻ đẹp nào của tha nhân. Chúng ta thường thấy các người làm lớn (như Giám mục, linh mục, người lãnh đạo cộng đoàn) thường im lặng bỏ qua những sai sót nhỏ (không quan trọng) để nói lên lời khích lệ để xây dựng những tập thể và khuyến khích sự đóng góp của các thành viên trong Giáo hội. Hãy nhớ rằng: lời khích lệ sẽ làm cho tập thể lớn lên, còn lời xét nét chê bai sẽ giết chết nó ngay từ trong trứng nước.

Có thể kể đến cái xà mà Chúa Giê su nhắc tới là sự cứng tin vào sự hiện diện và tình thương của Chúa, về giao ước và lời dạy của Chúa. Dân Do Thái, vì cứng tin, đã chạy theo các thần dân ngoại – đã lãng quên những sự dẫn dắt và bao bọc của Chúa – đã bỏ ngoài tai những Lời Chúa ban và những điều khoản của giao ước Sinai. Trái lại, ông Abraham là cha của kẻ tin đã tin tưởng vào lời hứa của Chúa: rời bỏ quê hương đi đến vùng đất hứa và Chúa sẽ làm cho ông thành cha của nhiều dân tộc. Sự cứng tin luôn là một cái xà cản ngăn con người thờ phượng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng cứu chuộc, là Cha và là Đấng quan phòng cho từng người, từ lúc thụ thai cho đến lúc họ lìa đời. Có câu chuyện kể: Có một nhà trí thức đi ngao du khắp nơi để cho quên ngày tháng, trong tâm hồn ông mang một nỗi buồn lớn vì cô đơn và vì thấy cuộc đời vô vị, một hôm ông gặp một người chăn chiên đang vui vẻ thổi sáo – tuy nghèo, chẳng có học và chẳng có tương lai, cậu mới hỏi người kia: tại sao ông phiền muộn?- Tuy tôi tin có Chúa nhưng tôi thấy cô đơn, tôi nghĩ thế giới này có đến mấy tỷ người làm sao Chúa chăm sóc từng người được; người chăn chiên gãi đầu và nói: ‘tuy cháu không có học thức, nhưng cháu lại cảm thấy niềm vui vì có Chúa là người bạn luôn đồng hành, bác nhìn xuống ngôi làng phía dưới mà xem - mỗi nhà đều có những cửa sổ, tuy chỉ có một mặt trời, nhưng mọi cửa sổ đều được chiếu sáng, Thiên Chúa quyền năng và tình yêu cũng chăm sóc tâm hồn ta như vậy, và người kia cũng được lây niềm vui và sự tin tưởng.



Thánh Phaolo nói: “Niềm vui của Chúa là sức mạnh của anh em, tôi nhắc lại một lần nữa: anh em hãy vui lên” (Philip 4, 4). Thánh Phaolô tin rằng vui mừng là một khuynh hướng ​​cơ bản mà tất cả chúng ta nên cố gắng duy trì, ngay cả khi mọi sự không diễn ra như ý muốn của chúng ta. Trong lá thư ngắn của Phaolô gửi cho các tín hữu Philipphê, trên thực tế, ngài đã nói về việc hân hoan vui mừng tới mười lăm lần. Và chúng ta nhớ rằng Phaolô đang ở trong tù khi ngài viết lá thư đó! Ngài không để cho hoàn cảnh cướp đi niềm vui của mình. Lạy Chúa, xin hãy giúp con duy trì niềm vui của con, đặc biệt khi con đối diện với những thử thách khó khăn của cuộc sống” (Word among us).

 

 

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

Nghịch lý

 



Trong những ngày cuối tuần 11 TN năm lẻ (2 Corinto chương 11 và 12), chúng ta được nghe những lời tự sự của Thánh Phaolô, càng đọc càng thấy nổi lên những nghịch lý của Tin Mừng. Có thể nói, sau những lời ‘chói tai và khó hiểu’ của Chúa Giê su được xem là bậc nhất, thì lời của Thánh Phaolô và lối sống của Ngài được xếp vào bậc nhì. Chúng ta cùng điểm lại vài lời của thánh nhân để học nơi ngài cái nhìn của đức tin - cái nhìn hướng về trời cao.

Lời thứ nhất: “Tôi tự hào về những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Ki tô có thể hoạt động nơi tôi”. Ai trong chúng ta cũng có nỗi sợ nhìn thấy sự yếu đuối thể xác và tâm linh của mình và người thân. Chúng ta cố gắng che đậy sự yếu đuối, sự thất bại, vì sợ người khác xem thường và tránh xa. Người ta sợ thăm người bệnh là vì nhìn thấy hình ảnh của mình nơi người anh em đó, cách tốt nhất là đừng nhìn và đừng bận tâm. Thánh Giáo hoàng Gio an Phaolo 2 được yêu mến vì vào những ngày cuối đời, dám phơi bày sự yếu đuối của bản thân trước ống kính của truyền hình. Và Thánh Phaolô đã lặp đi lặp lại câu nói ‘tôi tự hào về những yếu đuối của tôi’ như là điều kiện để sức mạnh Đức Kitô có thể hoạt động nơi mình – vì khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh. Thánh Phao lô nói tiếp: ngài vui sướng khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki tô. Ngài coi mọi sự là rơm rác va thua thiệt trước mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Giê su, “vì Ngài tôi đành mất mọi sự”. Ngài còn xem việc sống và chết là tùy nơi Chúa, nếu cho ngài chọn thì không biết chọn điều gì! Một nhà tu đức nói: “Một người nếu hiểu được mầu nhiệm của đau khổ và thập giá thì đã hiểu hầu hết mầu nhiệm chính của Ki tô giáo”.

Còn lúc phải kể ra những ưu việt của mình thì Thánh nhân phải kèm theo lời chú thích ‘tôi nói như người điên’. Chúng ta thì rất khác, vì thường bị ảnh hưởng bởi sự khôn ngoan của thế gian và theo tính xác thịt ‘tốt thì khoe, xấu thì che, có vậy mới tiến thân được’. Một trong những tội chúng ta thường lỗi phạm, xưng hoài cho đến chết là khoe mình và chê người: nói tốt về bản thân, những thành tích và công việc của mình 'tôi, tôi, tôi'. So với Thánh Phao lô và nhiều vị thánh, sự ưu việt của chúng ta chẳng đáng gì về sự giàu có, kiến thức, công trạng và thành công, nỗ lực truyền giáo…




Chúa Giê su mời gọi chúng ta tích trữ kho tàng trên trời vì kho tàng dưới đất sẽ bị trộm và mối mọt gặm mất, không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của. Có câu chuyện kể: một người nọ có 4 người vợ, ông rất cưng chiều ba người vợ sau nhưng không để ý gì đến người vợ đầu tiên, đến giờ chết ông ngỏ lời với 3 người kia xem họ có đồng ý đi với ông không và họ đều từ chối – vậy mà người vợ đầu lại đồng ý cùng đi với ông, 3 người vợ kia là thân xác – của cải – người thân đều rời bỏ ta khi ta chết, chỉ có linh hồn đi với ta – vậy mà trong cuộc sống nhiều khi ta không mấy quan tâm đến nàng. Chúa còn dạy ta: “Hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác (cơm ăn, áo mặc, mạng sống) Người sẽ ban cho.

Đừng nghĩ rằng ơn gọi nên thánh chỉ dành cho một số người có thể dứt bỏ những bận tâm về cuộc sống để chuyên chăm cầu nguyện. Ơn gọi nên thánh là dành cho mọi người đã chịu phép rửa, họ có những bận tâm về cơm ăn áo mặc và đầy những yếu đuối, nhưng họ đang nỗ lực bước tới: bớt nói xấu một chút, chú ý lắng nghe con nói chuyện – dù mình đang mệt, hy sinh một chút thời gian để cộng tác vào việc truyền giáo và chăm sóc kẻ khác. Chúng ta chiêm ngắm sự thánh thiện nơi các ‘tầng lớp quý tộc’ nhưng cũng đừng quên: có rất nhiều vị thánh thuộc ‘giới bình dân’, họ sống thánh âm thầm giữa dòng đời mà không ai chú ý đến họ (trích ý từ thông điệp nên thánh GE ).

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

Tiếng khen

 



Ai trong chúng ta cũng thích được khen ngợi chân thành và tiếng khen đúng sẽ kích thích sự thăng tiến của một người trên con đường nhân đức và công việc phục vụ đồng loại. Nhưng sẽ là tai họa khi tiếng khen trở nên động lực của những việc ta làm. Lời Chúa nói với ta: “Khi làm việc lành, đừng làm vì phô trương, kẻo mất công phúc trước mặt Cha anh em” (Mt 6, 1).

Việc lành mà Chúa nói tiếp trong bài Tin Mừng là: bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Làm vì phô trương là làm để cho người ta thấy và để được tiếng khen của người đời. Lời Chúa nói với chúng ta về sự tinh sạch trong lòng: làm mọi việc vì Chúa và cậy dựa nơi Chúa; và quả tim ta trở nên nhơ uế không phải vì phạm tội mà vì cướp mất vinh quang Chúa: làm để được lưu danh và cậy dựa vào sức mình. Nếu để mắt quan sát những người cộng tác vào các sinh hoạt cộng đoàn trong Giáo xứ hoặc Giáo họ, chúng ta dễ dàng nhận ra những người ‘đầu tàu, những người nhiệt tình’ của mỗi tập thể. Giáo hội rất cần những người nhiệt tình và vui vẻ phục vụ, nhưng Lời Chúa nhắc nhở mỗi người: hãy làm vì yêu Chúa và vì Giáo hội, đừng làm vì phô trương – kẻo mất công phúc. Trái lại, trong cộng đoàn cũng có những người ‘không hoạt động’ vì nghĩ rằng mình kém tài và kém đức, đừng tưởng rằng mình vô sự trong việc không phô trương, vì có Lời Chúa nói với người lãnh một nén bạc mà không làm sinh lợi: "hỡi đầy tớ xấu xa và biếng nhác, hãy đi cho khuất mắt Ta" (Mt 25, 26-30). Đức Phan xi cô nhắc đến những người sống một cuộc sống tầm thường: những “kẻ thù” của sự thánh thiện không hẳn là những kẻ tội lỗi nhưng là những người an phận với nếp sống tầm thường, nhất là những người lầm tưởng rằng mình đã nên thánh, song thực sự còn xa với lý tưởng Tin mừng, chẳng hạn như người nghĩ rằng việc nên thánh hệ tại việc đắm chìm trong sự chiêm ngưỡng các mầu nhiệm cao siêu của đạo nhưng lại bỏ qua việc chăm sóc người nghèo!

Xin trích một đoạn ngắn của một bài báo. Trong thời đại mà thành công được đo bằng hiệu quả, vị thế được khẳng định qua sự hiện diện trên mạng xã hội, và tiếng gọi lương tâm nhiều khi bị nhấn chìm bởi sự ồn ào nhiễu loạn của xã hội, việc chọn lựa sống đời thánh hiến hoặc ‘việc phục vụ không lương’ dường như là một điều ngược dòng, thậm chí… lỗi thời. Thế nhưng, chính trong “dòng chảy ngược” đó, ơn gọi vẫn vang lên như một lời thì thầm kiên vững, mời gọi con người sống không phải cho chính mình, mà cho Một Đấng là Tình Yêu -  và cho tha nhân. Hai vị Giáo hoàng của thời đại chúng ta – Đức Phanxicô và Đức Lêô XIV – tuy xuất thân và hành trình ơn gọi khác biệt, lại gặp nhau ở một điểm chung: họ là những chứng nhân sống động cho một đời hiến dâng trọn vẹn, khiêm tốn, gắn bó với người nghèo và trung thành với Chúa Kitô.

 


Con đường nên thánh của mỗi Ki tô hữu là phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm của lễ sống động đẹp lòng Thiên Chúa (Rm 12, 1). Đừng nghĩ hiến dâng là chết, giống như Chúa Giê su trên thập giá và giống như các thánh tử đạo. Điều quan trọng cần phải nỗ lực là hiến dâng và trao ban mỗi ngày. Điều này nhắc nhở chúng ta về một sự thật: Chúa Giê su đã sống tâm tình hiến dâng mạng sống mình trong suốt 33 năm và cao điểm là cái chết trên thập giá; CTTĐVN đã có một cuộc sống hùng anh trước khi có cái chết anh hùng. Chúa mời gọi bạn và tôi hiến dâng đời mình để yêu Chúa và để thực hiện những ‘cho đi’ mỗi ngày, cho một cách vui vẻ và đơn thành. Bất cứ làm công việc gì, bạn hãy 'xin Chúa soi sáng – giúp sức, và xin Chúa giữ gìn con trong sự khiêm tốn’. Amen

Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2025

CẤP KITÔ

 


(Suy niệm của cha Minh Anh):

“Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa!”.

“Hiền lành trong lời nói tạo nên sự tự tin; hiền lành trong suy nghĩ tạo nên sự sâu thẳm; hiền lành trong cho đi tạo nên tình yêu. Hiền lành không phải là yếu đuối, nhưng là sức mạnh được kiểm soát!” - Lão tử.

Kính thưa anh chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy quan điểm của Chúa Giêsu về sự hiền lành - điều tạo nên sự tự tin, sâu thẳm và tình yêu. Qua sự hiền lành của chính Ngài và giáo huấn Ngài dạy, Chúa Giêsu muốn đức ái của chúng ta đạt tới một cấp độ cao hơn, ‘cấp Kitô!’.

Với Chúa Giêsu, sự dữ không thể được đáp trả bằng một sự dữ lớn hơn! Với Ngài, luật “mắt đền mắt” - từng được coi là tiến bộ - không còn phù hợp. Ngài mời chúng ta đạt đến một cấp độ hoàn toàn khác của đức ái; Ngài đề nghị hãy chiến thắng điều dữ bằng điều lành.

Trong phiên toà xét xử Ngài, quân dữ khạc nhổ, đánh đấm và vả mặt Ngài. Phản ứng của Chúa Giêsu là im lặng; nghĩa là Ngài đã “giơ cả má bên trái ra nữa”. Đây là sự yếu đuối hay sức mạnh? Đáp trả bằng cách tấn công hay tự kiềm chế? Chúa Giêsu đã chọn điều tốt nhất, vì Ngài biết rõ, bằng cách tấn công, người ta sẽ ‘xuống cùng’ một cấp độ với kẻ tấn công mình. Ở một chỗ khác, Ngài hỏi những kẻ chất vấn và đánh đập Ngài, “Nếu tôi nói sai, hãy chứng minh điều sai. Nhưng nếu tôi nói đúng, sao lại đánh tôi?”.

Rõ ràng, Chúa Giêsu không phải là nạn nhân; đúng hơn, Ngài đang kiểm soát, tự chủ để không bao giờ mất đi sự bình tĩnh và phẩm giá của mình cho đến phút cuối. Và đó là lý do tại sao chúng ta bắt chước và tôn thờ Ngài. Vì thế, việc ‘giơ cả má bên trái’ không là dấu của yếu đuối, nhưng là dấu của một sức mạnh nội tâm to lớn, một lòng tự trọng sâu sắc và thậm chí là sự tôn trọng phẩm giá của chính kẻ tấn công mình. “Hiền lành không có nghĩa là để người khác giẫm lên, mà là đứng vững mà không cần phải gây tổn thương!” - Rollo May. Phaolô cũng dạy điều tương tự, “Chúng tôi lấy sự công chính làm vũ khí tấn công và tự vệ!” - bài đọc một. Lời Chúa mời gọi chúng ta không gây tổn thương nhưng tiến đến một cấp độ cao hơn - ‘cấp Kitô’ - vượt lên từ “mắt đền mắt!”.

Anh Chị em,

“Hãy giơ cả má bên trái ra nữa!” Vậy trong các tình huống tương tự, bạn và tôi đừng để mình trở thành nạn nhân, nhưng hãy là ‘chủ nhân’ hoàn toàn tự chủ! Chúng ta không chọn bạo lực; nhưng chọn ‘bất bạo động chủ động’ với lý tưởng tôn trọng con người và phẩm giá của họ, những kẻ mà - cùng Chúa Giêsu - bạn và tôi muốn cứu độ! Thế giới hôm nay đang ‘chứng tỏ’ và ‘chứng kiến’ một ‘sự phá sản’ tàn khốc của một ‘chu kỳ bạo lực và chống lại bạo lực’ không hồi kết. Là con cái Chúa, chúng ta sống sự hiền lành như Thầy Chí Thánh, sống bản lĩnh Kitô giáo, một ‘bản lĩnh đượm chất Tin Mừng!’. Bởi lẽ, bạo lực không hề mặc cả và trả thù không hề ngọt ngào!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để điều ác làm con mất tự chủ! Cho con trở nên mạnh mẽ khi biết kiến tạo yêu thương ngay trong những gì ác ý nhất của người khác!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

 NB. Lời của M. Gandhi: "Giây phút đẹp nhất của cuộc đời Chúa Ki tô là lúc Ngài thốt lên lời cầu nguyện 'Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm' (Lc 23, 34).

Thánh Stephnô, vị tử đạo tiên khởi đã noi gương Thầy mình, lúc bị ném đá đến gần chết, thánh nhân đã thốt lên: "Lạy Chúa, xin đừng chấp tội họ" (Cv 7, 60).

Đất nước nào và tổ chức tôn giáo nào cũng có những vị anh hùng dám hy sinh cuộc đời và tính mạng vì lý tưởng và hạnh phúc nhân dân. Điểm khác biệt căn bản nhất giữa các Thánh Tử Đạo và họ là ở sự tha thứ: các vị anh hùng thường chết trong sự oán hận và lòng đầy chí khí trả thù, còn các Thánh tử đạo lìa đời trong sự phó thác vận mệnh trong tay Thiên Chúa và tha thứ cho kẻ làm khốn mình, họ vui mừng vì được nên giống Thầy Giê su, vị tử đạo gương mẫu của Ki tô giáo.

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

Một Chúa Ba Ngôi

 



Có lẽ đây là đề tài khó diễn tả nhất trong Thần học, khó để cảm nghiệm và càng khó hơn khi phải chia sẻ và nói cho người khác hiểu. Có một giai thoại kể rằng: một hôm Thánh Augustinô đi dạo trên bãi biển và Ngài đang suy gẫm để cố gắng hiểu biết về mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, thì Ngài thấy một em nhỏ dùng vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang của con dã tràng đào trên cát, em cho biết đang cố gắng làm biển cạn đi, thánh nhân thấy nực cười cho nỗ lực của em, em mỉm cười cho biết chuyện em làm còn dễ hơn việc thánh nhân đang làm, và thánh nhân đã hiểu ý của vị thiên thần nhỏ: lấy Đức Tin mà chấp nhận những điều Chúa đã mạc khải, trí khôn chỉ hiểu được phần nào thôi.

Quả thực, con người có thể dùng trí khôn và sự soi dẫn của Thiên Chúa để nhận biết Đấng Tạo dựng nên vũ trụ rất trật tự và hài hòa đến kinh ngạc - đến mức những ai cho rằng vạn vật tự nhiên mà có thì rất vô lý! Thế nhưng, để nhận biết Thiên Chúa Ba Ngôi thì phải có mạc khải của Thiên Chúa, đặc biệt là những lời của Chúa Giê su: Cha ở trong Con và Thánh Thần luôn cùng hành động trong Cha và Con, từ thuở đời đời và mãi mãi vô cùng. Thần học chỉ nói với ta chừng ấy, và tốt hơn là chúng ta sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19). Lịch sử Giáo hội đã phát sinh bao nhiêu lạc thuyết và tốn bao nhiêu giấy mực để duy trì niềm tin như chúng ta đang có hôm nay: Một Thiên Chúa Ba Ngôi, bằng nhau và trong nhau. Với trí khôn loài người, chúng ta thường quy việc tạo dựng cho Chúa Cha, việc cứu chuộc cho Chúa Con và việc thánh hóa cho Chúa Thánh Thần.




Mỗi lần làm dấu Thánh Giá đơn và nhất là dấu Thánh Giá kép, hãy ý thức mình đang tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, được gọi là mầu nhiệm chính trong đạo. Khi tuyên xưng Danh Thiên Chúa và vẽ hình Thánh Giá trên trán – trên tim và trên hai vai là chúng ta xin Chúa thánh hóa tâm trí, quả tim và đôi tay, chúng ta xin Chúa thánh hóa con người khỏi những cám dỗ và mưu chước ma quỷ - để hoàn toàn thuộc trọn về Chúa Ki tô, tựa như việc đánh dấu lãnh thổ. Đàng khác, việc làm dấu Thánh Giá trước mặt người đời còn là một cách làm chứng cho Chúa, dạn dĩ xưng danh Chúa. Mỗi lần đọc kinh Tin, chúng ta lại tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, hãy đọc với lòng xác tín sâu xa vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành đã mạc khải cho ta biết.

Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đã yêu thế gian đến nỗi ban cho họ Người Con Một, để ai tin vào Người Con ấy thì được sống đời đời. Chúng ta thường thấy các câu chuyện thần thoại cũng thường có những chuyện nói về nguồn gốc vũ trụ, sự xuất hiện của những vị thần, nhưng sự thường là các vị thần đó đấu đá nhau để tranh giành quyền lực và thể hiện sự ưu việt của mình, có thể xem những câu chuyện hư cấu này là sản phẩm của trí tuệ con người. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần cho rằng: Không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người, nhưng chính con người đã dựng nên những vị chúa và phú cho ngài những khả năng mà họ mơ ước. Thế nhưng, điều khác biệt căn bản trong mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là: Ba Ngài luôn yêu thế gian dù họ sa ngã và các Ngôi vị luôn yêu thương nhau - cùng hành động với nhau, vì Thiên Chúa là tình yêu.

Tạ ơn Thiên Chúa đã tạo dựng vũ trụ cho người thế hưởng dùng. Tạ ơn Chúa đã cứu chuộc con người khi họ bất tuân không muốn lệ thuộc vào Chúa và đã sa vào con đường chết. Tạ ơn Chúa đã ban Thánh Thần như người mẹ hằng nâng niu chăm sóc các tâm hồn, để họ luôn bước đi trên con đường chính lộ tiến về cõi trường sinh. Xin cho chúng con biết thờ phượng Chúa và sống trong tình yêu thương anh em, biết tìm kiếm ý Chúa và làm sáng danh Chúa – để mọi người tin nhận Một Chúa Ba Ngôi là lẽ sống đời đời. Amen

Thứ Tư, 11 tháng 6, 2025

Công chính

 



Lời Chúa nói với chúng ta: “Nếu các con không ăn ở công chính hơn các kinh sư và biệt phái, thì các con không được vào nước trời” (Mt 5, 20). Các kinh sư là các thầy thông luật, các biệt phái là những người giữ luật một cách nghiêm nhặt. Vậy làm sao mà Chúa Giê su đòi hỏi các môn đệ của Ngài phải ăn ở công chính hơn các vị, nếu muốn được vào nước trời?

Để hiểu hai nhóm trên, chúng ta vào google hỏi thì được trả lời như sau:

“Kinh sư (Grammateus):

·         Là những người có học thức, thông thạo luật Môsê và Kinh Thánh. 

·         Thường được gọi là ký lục, luật sĩ hoặc thầy thông luật. 

·         Chuyên trách giải thích và áp dụng luật pháp. 

Biệt phái (Pharisêu):

·         Là một nhóm xã hội, đảng phái hoặc trường phái tư tưởng. 

·         Được coi là nhóm lãnh đạo tôn giáo và chính trị. 

·         Tuân thủ nghiêm ngặt luật Thiên Chúa, nhưng cũng có thể áp đặt luật pháp trên dân chúng. 

Mối liên hệ:

·         Một số Kinh sư có thể là thành viên của nhóm Biệt phái. 

·         Tuy nhiên, không phải tất cả các thành viên của Biệt phái đều là Kinh sư”. (internet)

 


Trong tông huấn tiếng gọi nên thánh trong thế giới hôm nay (GE), Đức Giáo hòang Phanxicô đề cập đến hai kẻ thù cua sự nên thánh là tân ngộ đạo thuyết và tân Pelagio. Ngộ đạo thuyết là những người chủ trương rằng: Sự thánh thiện đặt nền tảng trên những nhận thức cao siêu về chân lý, càng hiểu biết và đào sâu những điều thần bí của đạo thì càng gần Thiên Chúa, họ biến Ki tô giáo thành một hệ tư tưởng trong lúc lại bỏ qua việc thực hành những việc bác ái, cầu nguyện, lòng thương xót, và coi thường những người bình dân (Có thể ví như là các kinh sư).

Còn thuyết Pelagio là gì? Pelagio là tên của một đan sĩ sống vào thế kỷ V (360-420). Vào một thời kỳ phong hóa suy đồi, ông kêu gọi cố gắng chấn hưng kỷ luật qua các việc tu đức khổ chế. Tiếc rằng vì nhấn mạnh quá đáng đến nỗ lực của con người, ông giảm nhẹ vai trò của ân sủng, khiến cho thánh Augustinô phản ứng quyết liệt. Tông huấn đặt tên Pelagio cho thái độ nhấn mạnh đến nỗ lực cá nhân, đến nỗi hầu như sự thánh thiện là kết quả của ý chí chứ không phải là ân sủng. Thế nhưng, sự thánh thiện là tác động của Thiên Chúa trong cuộc đời của chúng ta cũng như là sự hợp tác với Thánh Linh (Có thể ví như các biệt phái).

Chúa Giê su đến trần gian, Ngài không thuộc hai nhóm trên, Ngài giảng những điều được Cha truyền nói – thế nên nhóm kinh sư cũng thường xuyên xuất hiện để xem lời Chúa giảng có gì sai để bắt bẻ; còn nhóm biệt phái thì thường xuyên khó chịu vì Chúa thường lỗi luật sa bat, không giữ luật thanh tẩy và thường tiếp xúc với những người tội lỗi. Sự công chính Chúa đòi hỏi chúng ta là: phải có tình yêu trong mọi việc ta làm và trong việc tuân giữ Lời Chúa. Tình yêu Chúa phải là chóp đỉnh và là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hành trình sống đạo của người Ki tô hữu, tình yêu đó thúc đẩy người con cái Chúa lưu tâm đến tha nhân là hiện thân của Chúa. Linh đạo của người con cái Chúa được đặt nền tảng trên sự khó nghèo và lòng thương xót: sự thánh thiện của Ki tô hữu là sống dưới con mắt Chúa như bé thơ và trông mong mọi sự từ Chúa - như đôi mắt nữ tỳ hướng nhìn tay bà chủ, và khi ý thức rằng mình lãnh nhận mọi phúc lành từ Chúa thì ta cũng phải cư xử với anh em với lòng thương xót.

 

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

Chúa Thánh Thần

 



“Thầy đi thì có lợi hơn cho anh em, vì Thầy sẽ ban Thánh Thần xuống, Ngài sẽ nhắc nhở anh em về những điều Thầy đã nói khi còn ở thế gian”. Đó chỉ là một trong nhiều lời Chúa Giê su nói về Chúa Thánh Thần. Thời đại sau khi Chúa Giê su về trời là triều đại của Chúa Thánh Thần, mở đầu bằng biến cố Chúa Thánh Thần ngự đến trong ngày lễ Ngũ Tuần, được xem là ngày khai sinh của Hội Thánh (Cv 2, 1-11).

Chúng ta lần giở lại bài đọc nói về việc ‘ngôn ngữ bất đồng’ trích ở sách Sáng Thế 11, 1-9. “Đức Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. Nào Ta làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa” (St 11, 5-7). Đọc đoạn văn trên, chúng ta dễ hiểu theo nghĩa đen rằng: Thiên Chúa thấy ‘sự hiệp nhất xây thành của con người để lưu danh’ thì đâm sợ và Ngài chủ động gây nên sự bất đồng ngôn ngữ khiến loài người chia rẽ và phân tán khắp mặt đất. Đúng hơn, 11 chương đầu của sách Sáng Thế mang ý nghĩa ‘cắt nghĩa về nguồn gốc và chỉ mạc khải về nội dung’ của công trình sáng tạo, đừng hiểu theo nghĩa đen như một sách lịch sử ghi lại mọi biến cố một cách chính xác về thời gian. Đoạn văn trên phải hiểu theo nghĩa mạc khải: Thiên Chúa là Đấng sáng tạo trời đất – muôn loài muôn vật và cao điểm là con người, con người bất tuân lệnh truyền của Chúa – từ tội phạm đầu tiên đó, hai ông bà nguyên tổ đã đánh mất ‘tình trạng công chính nguyên thủy’ nên họ đổ lỗi cho nhau, anh em giết nhau và nhân loại chia rẽ - phân tán khắp địa cầu. Có thể hiểu mô hình sa ngã như hình kim tự tháp, đỉnh là Thiên Chúa và đáy mở rộng theo chiều dài của lịch sử loài người – với muôn hình thức sa ngã do ma quỷ gây nên. Giáo hội ca tụng 'công trình cứu độ của Chúa Giê su còn vĩ đại và xinh đẹp hơn công trình tạo dựng thuở ban đầu gấp bội lần', tuy vậy sự quan phòng của Chúa lại chấp nhận 'cỏ lùng và lúa chung sống với nhau cho đến mùa gặt', cho nên công việc của ma quỷ vẫn sinh sôi nẩy nở trên trần gian cho đến ngày tận thế.

Trái ngược với hình ảnh trên, chúng ta cùng khám phá những chiều kích của sách Công vụ 2, 1-11 mô tả: Vào ngày lễ ngũ tuần, dân chúng tụ họp đông đảo, Chúa Thánh Thần được ban xuống từ trời, các tín hữu hiệp nhất và được ơn nói các tiếng lạ để ca tụng những kỳ công của Chúa. Sách Công vụ còn kể nhiều về hoạt động của Chúa Thánh Thần như: soi lòng mở trí cho các Tông đồ hiểu Kinh Thánh, giảng những bài giảng rất sống động, không còn sợ hãi sự bách hại, mạnh dạn ra đi khắp nơi rao giảng về Chúa Ki tô đã chết và phục sinh, vâng theo những soi dẫn của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần hoạt động trong từng cá nhân, từng biến cố, và khi các Tông đồ hội họp Công đồng đầu tiên ở Giê ru sa lem. Chúng ta thường liệt kê thành 7 ơn Đức Chúa Thánh Thần: ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn biết lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức và ơn biết kính sợ Đức Chúa Trời.



Chỉ có Ma quỷ là kẻ gây nên chia rẽ (divide) và lên án (accuse): tập chú vào bản thân; còn hoa quả của Thánh Thần là hoan lạc, bình an, hiệp nhất: tập chú vào việc kính sợ Đức Chúa Trời. Bởi đó, phải luôn xin ơn Chúa soi sáng để biết tránh ‘những suy nghĩ tiêu cực – lời nói gây họa – và lời viết không cần thiết trên mạng xã hội’ gây nên sự đả kích và chia rẽ; biết suy nghĩ và nói những lời xây dựng sự hiệp nhất và bình an cho nhau. Bản xét mình hằng ngày của mỗi người phải tập trung vào việc thờ phượng Chúa và mối liên hệ với tha nhân: ma quỷ cám dỗ ta cắt đứt liên lạc với Chúa Giê su và ưa chúi mũi vào chuyện xấu của kẻ khác như là tin tức – trong lúc việc tốt của họ thì không thấy.

Ơn riêng Chúa ban cho mỗi người là để xây dựng cộng đoàn. Người được ơn nhiều rất dễ mất linh hồn khi họ quá tự hào về ‘tài năng hơn người’ mà không sử dụng cho đúng những nén bạc Chúa ban, dễ khinh dể kẻ không có năng khiếu mà không nhận ra sự nỗ lực của họ trong cuộc sống. Sách tu đức dạy rằng: Không ai quá nghèo đến nỗi không có gì để cho. Bạn có nghĩ rằng mình đang có quá nhiều và quá giàu khi được sinh ra đời lành lặn thân xác và tinh thần, có của ăn của để, có học hành và biết đến máy vi tính, có sức khỏe để hít thở khí trời và làm những việc mình muốn, có người thân bên cạnh để nâng đỡ và yêu thương… vậy hãy làm gì đó cho Chúa, ra đi khỏi bản thân để loan báo Tin Mừng cho anh em, trở nên chiến sĩ Chúa Ki tô.

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2025

Phần con, hãy theo Thầy

 



Có lẽ Thánh Phê rô đã có một câu hỏi hơi thừa, khi hỏi về số phận tương lai của tông đồ Gio an. Và câu trả lời của Chúa cũng mang vẻ bông đùa, khiến các anh em cũng phải bàn tán về việc ông Gioan sẽ không chết. Làm gì có chuyện con người mà không phải chết?

Chúng ta biết: ông Phê rô đã bị ngược đãi và tử vì đạo vào khoảng năm 67, đúng như lời Chúa báo trước; còn ông Gioan chết già, ông nghiền ngẫm những giáo huấn của Chúa và đã viết sách Tin Mừng thứ tư, nhưng chính ngài cũng bị ngược đãi vì đạo và bị đày đến chết trên đảo Patmos. Như vậy, cuộc sống của người theo Chúa không ai giống ai, mỗi người mỗi cách làm chứng cho Đức Giê su, mỗi người có cách thể hiện tình yêu của mình. Chúng ta cũng thường bị cám dỗ so sánh mình với người khác, đó là điều thường không cần thiết vì dễ dẫn đến điều tiêu cực: tự hào, ghen tị, phê bình, lên án, buông xuôi bỏ cuộc. Hãy biết rằng mỗi người có con đường phải đi, có nỗi khổ phải chịu và Chúa có một kế hoạch cho mỗi cuộc đời. Sự so sánh cũng đôi khi có ích, khi nó kích thích mình tiến lên trên con đường nhân đức - không phải là một bản sao, nhưng theo cách của riêng mình và trong hoàn cảnh sống của mình, như câu nói của thánh Au gus ti nô: “ông nọ bà kia làm thánh, tại sao tôi lại không làm thánh?”.

Xin trích số 7  của tông huấn ‘bàn về việc nên thánh trong thế giới hôm nay’ (Gaudete et exsultate): Tôi thích chiêm ngưỡng sự thánh thiện hiện diện trong sự kiên nhẫn của dân Thiên Chúa: nơi những cha mẹ nuôi nấng con cái họ với tình yêu thương bao la, nơi những người nam nữ làm việc chăm chỉ để nuôi sống gia đình, nơi người bệnh tật, nơi các tu sĩ già cả mà không bao giờ mất nụ cười của họ.  Trong sự kiên trì hàng ngày của họ, tôi thấy sự thánh thiện của Hội Thánh đang chiến đấu.  Rất thường thì đó là một sự thánh thiện được tìm thấy ở những người hàng xóm cạnh nhà chúng ta, là những người, đang sống giữa chúng ta, phản ảnh sự hiện diện của Thiên Chúa.  Chúng ta có thể gọi họ là “giai cấp trung lưu của sự thánh thiện” (Đừng chỉ chiêm ngưỡng các vị được phong thánh mà hãy tập nhìn thấy sự thánh thiện đang hiện diện quanh ta, điều đó tạo cho ta niềm vui).




Chúng ta được mời gọi chiêm ngắm vẻ đẹp của những người thân trong gia đình, trong giáo xứ: những đóng góp nhỏ bé, hằng ngày, kiên trì qua năm tháng - để duy trì sinh hoạt cho cộng đồng đong đầy và chan chứa bao tình thương. Có câu chuyện kể về một người đàn ông sống trong gia đình đã 30 năm nay, thường vô tình và cư xử cộc cằn với vợ con; bỗng dưng một ngày nọ ông thay đổi, ông nói với vợ: “cảm ơn em vì bao nhiêu việc tốt em đã làm cho anh, như giữ gìn căn nhà sạch đẹp, nấu cơm cho anh ăn, giặt giũ quần áo cho anh và chăm sóc anh chu đáo như một người mẹ”; nghe những lời như thế, người vợ đâm hoảng vì nghĩ có điềm gì không lành sắp xảy ra trong gia đình, bà không dám tin rằng chồng mình cũng là một người giàu tình cảm – rất khác với vẻ cứng cỏi từ xưa đến này; và rồi bà cũng nhận ra những điều tốt lành khác nơi chồng: “em cũng biết ơn anh vì anh cũng rất vất vả chu cấp cho gia đình bao nhiêu năm nay.

“Phần con, hãy theo Thầy” đáng trở thành câu tâm niệm của chúng ta. Khi đối diện với người xấu và kẻ làm điều ác, thì “Bạn đừng nổi giận vì quân gian ác, chớ phân bì với kẻ bất lương,

2 vì chúng tựa cỏ hoang mau úa và giống như thanh thảo chóng tàn (Tv 37). Và khi Chúa mời gọi ta làm việc cho Ngài, thì hãy chấp nhận hạn chế một phần tự do của mình ‘vì Hội Thánh’.

 

Thứ Ba, 3 tháng 6, 2025

KỲ VỌNG




“Như Cha đã sai con đến thế gian, con cũng sai họ đến thế gian”.

Ngày kia, Thomas Edison đem về cho mẹ một tờ giấy; mở ra, bà thất thần, mắt trào lệ. Bà đọc lớn tiếng, “Con của bà là một thiên tài; trường này quá nhỏ, không thể đào tạo cháu. Bà hãy tự dạy cháu!”. Mấy mươi năm sau, Edison lục lại căn xép, bỗng thấy mảnh giấy năm xưa, “Con bà đần, chúng tôi không nhận!”. Ông khóc hàng giờ rồi viết, “Edison, một thằng đần, sinh ra bởi một bà mẹ anh hùng. Nó đã trở thành thiên tài của thế kỷ!”. Ông nhớ lại, “Mẹ tôi luôn kỳ vọng vào tôi; bà là một ai đó để tôi không làm thất vọng!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Nếu có những bà mẹ rất ‘kỳ vọng’ vào con, thì Chúa Giêsu tuyệt đối ‘kỳ vọng’ hơn vào các môn đệ của Ngài - những ‘thiên tài’ - không chỉ tạo nên sự khác biệt cho thế giới, nhưng còn cứu độ thế giới! Tin Mừng hôm nay tiết lộ ‘kỳ vọng’ đó, “Như Cha đã sai con đến thế gian, con cũng sai họ đến thế gian!”.

Tại sao Chúa Giêsu ‘kỳ vọng’ vào họ đến thế? Như Cha hằng ở với Con khi sai Con xuống trần, các môn đệ và chúng ta cũng được Chúa Giêsu hằng ở cùng khi Ngài tiếp tục sai chúng ta đi vào thế gian. Bạn và tôi luôn ở trong tình yêu cùng sự nâng đỡ của Thánh Thần Ngài. Và giờ đây, bên hữu Cha, Ngài vẫn tiếp tục đồng hành với sứ vụ của Hội Thánh. Bên cạnh đó, chúng ta được bao quanh bởi một triều thần thánh tốt lành - những người luôn ủng hộ, cầu bầu, khơi nguồn cảm hứng; ngoài ra, còn có các linh hồn thánh thiện - những người thân yêu của chúng ta còn sống hay đã qua đời. Họ là những món quà vô giá được ban để hỗ trợ chúng ta trong việc xây dựng Nước Trời.

Vậy mà không ít lần, chúng ta cảm thấy thoái chí để rồi tìm cách chạy trốn. Chúa Giêsu không kéo chúng ta khỏi các cuộc chiến; nhưng ban sức mạnh Thánh Thần để chúng ta chiến đấu cho sứ vụ, hầu muôn dân nhận biết Chúa, “Hỡi vương quốc trần gian, nào hát khen Thượng Đế!” - Thánh Vịnh đáp ca. Phaolô đã rất ý thức trách nhiệm này; ngài sâu sắc đón nhận thực tế, “Tôi biết, khi tôi đi rồi, sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên” - bài đọc một. Vì thế, Phaolô phó dâng mọi sự cho Chúa, cho Lời ân sủng.

Anh Chị em,

“Con cũng sai họ đến thế gian”. Trong tình yêu và sức mạnh của Thánh Thần, Chúa Giêsu sai bạn và tôi đi vào thế giới như những ‘thiên tài’ ôm lấy thế giới và cứu độ nó! Hãy sống như những con trai, con gái của Chúa! Đừng ngạc nhiên khi nhiều người sẽ chỉ trích chúng ta; điều quan trọng, phải sống làm sao để những lời chỉ trích của họ sẽ không ai tin! Chúa Giêsu ‘kỳ vọng’ chúng ta; vì lẽ, chúng ta canh cánh bên lòng Ngài. Vì thế, dẫu có là gì đi nữa - ngã gục, sa sẩy - thì ơn Chúa luôn có đủ để mỗi người có thể trỗi dậy và tiếp tục đi tới! Bạn không được phép bi quan; và Chúa Giêsu - còn hơn một bà mẹ anh hùng - phải là Đấng để bạn và tôi không thể làm thất vọng!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con chùn bước trước bất cứ nghịch cảnh nào; nếu con lỡ bước, giúp con trỗi dậy, xô con đi tới, vì con luôn ‘kỳ vọng’ vào Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)