Chúa nhật thứ 2 Phục sinh là Chúa
nhật kính lòng thương xót Chúa. Lễ này gắn liền với Thánh Faustina và Đức Gioan
Phaolô 2. Bài viết nầy (SUY NIỆM CỦA NGÀY THỨ 6 TUẦN THÁNH CỦA CHA ROSICA, CSB)
giúp ta sống lại những tâm tình của chân phước Gioan Phaolô 2
Vào mỗi ngày thứ 6 Tuần Thánh, tôi
không thể quên được Đức Gioan Phaolô II, nhất là về ngày thứ 6 Tuần Thánh cuối
cùng của Ngài năm 2005.
Đau khổ của con người.
Một trong những bút tích quý giá
và không mấy ai trích dẫn của Ngài là tông thư được viết năm 1984 “Salvifici
Doloris” (Về nhũng đau khổ của người Kitô hữu). Dựa vào truyền thống của Thánh
Tông đồ Phaolô và giáo huấn truyền thống Công Giáo, Đức Gioan Phaolô II đã trải
nghiệm trong suốt đời mình rằng: chính nhờ qua đau khổ mà Chúa Kitô đã thực sự
liên đới với nhân loại, và cũng chính khi con người nếm mùi đau khổ thì họ có
một sự liên kết sâu xa với Chúa Kitô, nguồn sống của chúng ta.
Trong thông điệp “Salvifici
Doloris”, thì đau khổ là hệ lụy của tội lỗi và Chúa Kitô đã ôm lấy chính hệ quả
nầy thay vì từ khước chúng. Qua sự đón nhận đau khổ, Đức Giêsu đã nếm trải nó
cách trọn vẹn, Chúa mang lấy hậu quả của tội vào bản thân và trên đôi vai mình.
Ngài làm thế là vì tình yêu dành cho ta, không chỉ muốn cứu chuộc ta, nhưng còn
muốn nên một như ta, chia phần với điều ta đang chịu, trải nghiệm điều ta đang phải
gồng gánh. Và chính với tình yêu sẻ chia và thông phần đau khổ vì yêu này, Chúa
đã hoàn toàn phục hồi mối tương quan bị tội lỗi bẻ gãy, vì thế Ngài cứu chuộc
ta.
Đức Gioan Phaolô II dạy rằng ý
nghĩa của đau khổ đã hoàn toàn thay đổi bởi biến cố Nhập thể. Nếu không có biến
cố Ngôi Lời Nhập Thể, đau khổ chỉ là hậu quả của tội lỗi, là cơ hội thuận tiện
cho con người có cái nhìn vào nội tâm, cho tâm hồn được cứng cáp hơn, và cũng
là cơ hội để con người thể hiện tình yêu với nhau, những điều đó chỉ là những
giá trị phụ thuộc. Bởi vì, qua biến cố Nhập Thể, chúng ta được thông dự vào
Thân Mình Chúa Kitô. Đau khổ của ta là đau khổ của chính Chúa và là lời diễn tả
của một tình yêu cứu chuộc.
Vì là vị lãnh đạo của hơn một tỷ
người Công Giáo, vì là vì Giáo hoàng của thời đại vệ tinh và vi tính – tiếp xúc
với hàng tỷ người; vì là vị Giáo hoàng với 26 năm lãnh đạo…mà những kinh nghiệm
về đau khổ của Ngài có một tiếng vang lớn.. Như chúng ta biết, năm 1981. sau
lần bị ám sát hụt ở quảng trường Roma. Đức Gioan Phaolô II đã nói rằng: đau khổ
là một sứ điệp vô cùng lớn của Kitô giáo.
Vào những năm tháng cuối đời của
mình trên cương vị Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã thực sự trải qua những
đau đớn của kiếp người. Nhân loại nhận
ra rằng chính đời sống tâm linh đem lại một sức mạnh cho phép Ngài vượt qua nỗi
sợ hãi và ngay cả sợ thần chết. Thật là bài học đắt giá cho nhân loại! Cuộc
chiến của Ngài với những tật bệnh thể lý của tuổi già cũng là bài học thâm thúy
cho một xã hội khó chấp nhận người già và một nền văn hóa không nhìn thấy giá
trị cứu chuộc của đau khổ…
Vào năm 1994, tuổi già và bệnh
tật đã hầu như vô hiệu hóa những khả năng của Đức Gioan Phaolô, Ngài tâm sự với
những người thân cận rằng Ngài đã lắng
nghe tiếng Chúa và rằng Ngài sẽ dẫn dắt Giáo hội bằng một phương thức mới. Ngài
nói: “Tôi sẽ lãnh đạo bằng đau khổ”. “Ngài phải chịu nhiều đau đớn để mỗi gia
đình và cả nhân loại nhận ra rằng có một thứ Tin Mừng trổi vượt hơn, có thể nói
như vậy, là tin mừng về sự đau khổ - mà mọi người phải sẵn sàng chuẩn bị cho tương
lai.
Lời an ủi với những người đồng cảnh ngộ.
Vào năm 1999, là năm chuẩn bị cho
năm Toàn xá, Đức Gioan Phaolô II đã cho công bố “Tông thư cho những người cao
tuổi” (Letter to the Elderly), tiếp nối những lời dành cho người trẻ năm 1985,
cho các gia đình 1994, cho giới phụ nữ 1995 và các nghệ sỹ 1999. Và không kể đến
những thư Ngài dành cho các linh mục vào Thứ Năm Tuần Thánh hằng năm – kể từ
khi bắt đầu trên ngôi Giáo Hoàng. Ngài viết những lời thật cảm động và đầy
khích lệ dành cho những người đồng cảnh ngộ trong bức tâm thư này.
Ngài không hề sợ hãi khi phơi bày
trước con mắt người đời những giới hạn và yếu đuối mà những năm tháng tuổi đời
đè nặng trên đôi vai mình. Ngài không hề muốn dấu diếm chúng. Khi nói với giới
trẻ, Ngài không ngại nói với họ rằng: “Tôi là một linh mục già nua”. Đức Gioan
Phaolô II vẫn tiếp tục chu toàn sứ mạng trên ngai tòa Phêrô, Ngài hướng về
tương lai với nhiệt tình của tuổi trẻ không héo úa và với một tinh thần được
Ngài luôn gìn giữ cho tinh tuyền. Bức tâm thư này chứa đựng nhiều tình cảm cá
nhân, rất thân tình và không có cung giọng phân tích về tuổi già…Đúng hơn, đây
là lời đối thoại thân mật với những người cùng trang lứa với mình.
Ngài viết:”Sống lâu trên cuộc đời
nầy giúp chúng ta nhìn những kinh nghiệm sống bằng một cái nhìn sáng suốt hơn
và nhìn những đau thương một cách nhẹ nhàng hơn. Tuy vậy, những khó khăn từng
ngày chỉ có thể trở nên dễ chịu hơn với sự trợ giúp của Thiên Chúa, thêm vào đó
chúng ta được yên ủi biết bao vì biết rằng: ta sẽ được trường sinh sau cái chết
vì đã trải qua một cuộc đời lành thánh.
“Những người gìn giữ kinh nghiệm
sống” là tiêu đề cho một chương của bức tâm thư nầy. Ngài nói: “Trong quá khứ,
người già được kính trọng nhiều hơn, điều nầy vẫn còn được gìn giữ ở một số dân
tộc, nhưng nhiều nền văn hóa quá đề cao những người có ích là người trực tiếp
làm ra sản phẩm. Ngày nay nhân loại dang dần chuộng chủ trương ‘cái chết êm
dịu’ cho những hoàn cảnh khó khăn. Thật đáng báo động là ngày nay nhiều người
không còn lấy làm kinh tởm với thuyết ‘cái chết êm dịu’, điều mà những người
phò sự sống luôn xa tránh”.
Ngài nói thêm: “Chúng ta nên nhớ
rằng luật luân lý cho phép trong những trường hợp bệnh đã đến giai đoạn cuối
thì được ngừng thuốc chữa lành bệnh, mà chỉ áp dụng những chăm sóc y tế bình
thường nhằm giảm sự đau đớn cho bệnh nhân. Nhưng ‘cái chết êm dịu’ thì hoàn
toàn khác về ý hướng và hoàn cảnh, được hiểu là dẫn đến cái chết cách trực
tiếp, là một hành vi bản chất là xấu, vì vi phạm lề luật Chúa ban hành và xúc
pham đến nhân phẩm con người.
…
Bức tâm thư được kết thúc với
chương “Những lời khích lệ sống trọn vẹn cuộc sống”. Ngài viết: “Tôi muốn chia
sẻ thẳng thắn những cảm nhận của chính mình về cuộc đời lúc đã xế bóng, đã hơn
20 năm trên ngôi Giáo hoàng… Dù có nhiều biến chứng của tuổi già, tôi vẫn còn
vui hưởng cuộc sống. Tôi tạ ơn Chúa về điều nầy. Thật là kỳ diệu vì vẫn còn có
thể trao ban chính mình trọn vẹn vì lợi ích của Nước Thiên Chúa”
Ngài kết luận: “Ngay chính lúc
nầy, cha cảm thấy an bình khi nhớ lại những khoảnh khắc được Thiên Chúa kêu
gọi, lần lượt theo năm tháng của tuổi đời, với tâm tình “Này con đây”. Được
thuộc về Thiên Chúa là khao khát thâm sâu nhất trong trái tim con người, dù họ
có ý thức về nó hay không”
Thật là một chữ ký tuyệt vời của
Đức Gioan Phaolô II cho bức tâm thư này, vì chính Ngài đã trải nghiệm chúng
bằng chính đời mình. Chúng tôi là nhân chứng về những điều ấy.
Không giấu giếm đau khổ .
Đức Gioan Phaolô II dạy rằng cuộc
đời là linh thánh, dù cho đau khổ tràn ngập đời Ngài. Thay vì che đậy những biến
chứng của bệnh tật, như nhiều người nổi tiếng vẫn thường làm, Đức Gioan Phaolô II
để cho cả thế giới biết những gì mình đang trải qua. Sự đau đớn và cái chết của
vị Giáo hoàng nầy không diễn ra thầm kín mà được trưng lên truyền hình và cả
thế giới cùng theo dõi.
Vào những ngày cuối đời, người
lực sỹ đã trở nên bất lực, giọng nói dễ mến và vang đã trở nên im lìm, và bàn
tay đã viết biết bao văn kiện đã không thể hoạt động nữa. Lời huấn dụ cuối cùng
của Đức Gioan Phaolô II chính là trở nên biểu tượng của Lời Thầy đã nói với
tông đồ Phêrô năm xưa: “Thầy bảo cho con biết, khi con còn trẻ, con tự thắt lấy
giây lưng và muốn đi đâu tùy ý, nhưng khi về già, con sẽ đưa tay ra cho người
khác thắt giây lưng cho và đưa con đến nơi con không muốn đến” Sau đó, Chúa bảo
ông Phêrô: “Hãy theo Ta”. (Ga 21,18-19).
Nhiều người Công giáo và không
phải là Kitô hữu đã xem những đớn đau Đức Gioan Phaolô nếm trải thật giống như
cơn hấp hối của chính Chúa Giêsu, và chính Đức Giáo hoàng cũng như những người
thân cận – không ai mất can đảm khi so sánh như vậy.Vài năm trước khi mất, có
những người đặt vấn đề Ngài nên từ chức, thì được Ngài trả lời: “Vậy Chúa Giêsu
có xuống khỏi thập giá không?”. Có những người bàn luận về khả năng điều hành Giáo hội, giống như ban
quản trị của một nghiệp đoàn (CEO), họ đã lầm lẫn vấn đề. Đức Giáo hoàng không thi
hành một chức việc, Ngài lãnh lấy một trách vụ thần linh, và những đau đớn Ngài
chịu là phần cốt lõi của sứ vụ nầy.
Buổi chiều thứ sáu tuần Thánh cuối cùng.
Một trong những kỷ niệm sống động
nhất mà tôi giữ được là về tuần lễ cuối cùng của Ngài. Đó là lúc Ngài tham dự
nghi thức đi đàng Thương Khó vào chiều thứ 6 Tuần Thánh 2005. Trong nhà nguyện
riêng, qua màn ảnh truyền hình, Đức Gioan Phaolô II tham dự vào những gì đang
cử hành ở hý trường Coliseum. Màn hình camera trong nhà nguyện nầy được đặt
phía sau để Ngài không bị chia trí khi tham dự đàng Thương khó. Đức TGM John
Foley đang đọc phần suy niệm trên truyền hình bằng tiếng Anh, bài suy niệm của
Đức Hồng Y Ratzinger thật sâu sắc.
Vào những chặng cuối, có ai đó
đặt một cây Thánh Giá lớn trên đầu gối của Ngài, Ngài nhìn chăm chú và đầy lòng
yêu mến khuôn mặt của Chúa Giêsu. Khi nghe những dòng chữ: “Chúa Giêsu tắt thở
trên Thánh giá”, Đức Gioan Phaolô II đã kéo sát vào mình và ôm chầm Thánh giá.
Tôi không bao giờ quên được cảnh tượng nầy. Thật là một bài diễn văn hùng hồn
mà không cần lời! Giống hệt Chúa Giêsu, Đức Gioan Phaolô II đã ôm lấy Thánh giá.
Cái chết của vị giáo trưởng.
Nhiều giờ trước khi chết, Đức
Gioan Phaolô II đã nói lên những lời còn nghe ra được: “Nào ta đi về nhà Cha”.
Trong tinh thần hiệp thông cầu nguyện cho Ngài, Thánh lễ được cử hành trong
phòng riêng Ngài và đám đông tụ họp ca hát ở bên dưới, nơi quảng trường Thánh
Phêrô. Ngài mất lúc 9:37 tối ngày 2.4.2005. Qua những đau đớn, khổ nạn và cái
chết được phổ biến rộng rãi, người linh mục thánh thiện, Người kế vị Thánh
Phêrô, Người tôi tớ của Thiên Chúa đã diễn tả khuôn mặt Chúa Giêsu đau khổ bằng
một cách thế rất cảm động.
Vị Giáo hoàng thánh thiện.
Karol Wojtyla là một nhân chứng
ngoại thường. Qua lòng mộ đạo, những nỗ lực phi thường, những đau khổ và cái
chết của mình, đã truyền đạt sứ điệp đầy sức mạnh của Tin Mừng cho mọi người
trong thời đại chúng ta. Một yếu tố mang lại thành công cho sứ điệp của Ngài là
đám đông nhân chứng luôn bao quanh Ngài, họ được lớn lên nhờ Ngài và chính họ
nâng đỡ những chặng đường đời của Ngài. Đối với Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II,
ơn gọi nên thánh không loại trừ một ai, đó không phải là đặc ân dành riêng cho
một nhóm người được tuyển chọn.
Hiến chế tín lý về Giáo hội
(Lumen gentium) xác định rằng sự thánh thiện của Kitô hữu bắt nguồn từ Giáo hội
và diễn tả Giáo hội. Sự thánh thiện được biểu biểu lộ qua nhiều hình thức nơi
tất cả những ai đang cố đạt tới Đức Ái trọn hảo trong bậc sống của mình trong
khi xây dựng kẻ khác. (Số 39). Trong sự phong phú của ơn gọi nên thánh, được
bắt nguồn từ một sự thánh thiện duy nhất và được thúc đẩy bởi một Thần khí duy
nhất…theo gương Chúa Giêsu nghèo, khiêm hạ và thập giá, họ mang Chúa Giêsu nơi
mình để xứng đáng dự phần trong vinh quang. (số 41).
Khi đám đông hò reo “Santo
Subito” vào ngày an táng Đức Gioan Phaolô II, 8.4.2005, họ thực sự muốn nói gì?
– Họ muốn hô to lên rằng: nơi Karol Wojtyla, họ thấy một con người đã sống thực
với Thiên Chúa và đã sống với con người. Ngài là một tội nhân đã cảm nhận được
lòng thương xót và sự tha thứ của Chúa. Ngài là một vị tiên tri và là thầy dạy
những điều đúng đắn cho người đương thời và thế hệ kế tiếp. Ngài nhìn ngắm
chúng ta, yêu mến chúng ta , đã tiếp xúc với ta, đã chữa lành và ban cho chúng
ta niềm hy vọng. Ngài bảo ta đừng sợ. Ngài chỉ cho ta cách sống và yêu, biết cách
tha thứ và cách chết. Ngài dạy ta biết ôm lấy thập giá trong những trường hợp
nguy kịch nhất của cuộc đời, vì biết rằng thập giá không phải là câu trả lời
cuối cùng của Thiên Chúa.
Một người được tuyên phong là Thánh
không phài là một công bố về sự toàn hảo. Không có nghĩa là người đó không có
sự bất toàn, mảng tối, sự điếc và tội. Không phải là họ trong trắng dưới cái
nhìn của Vatican.
Phong Thánh hoặc Á Thánh cho ai là muốn nói rằng một người đó gắn bó đời mình
với Thiên Chúa, hoàn toàn tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa từ nhân, họ bước
đi với sức mạnh và quyền năng của Chúa, tin tưởng vào những điều bất khả, yêu
kẻ thù và những người ngược đãi mình, tha thứ giữa những những bất hạnh và bạo
lực, hy vọng vượt ngoài mọi hy vọng, và làm cho thế giới nầy tốt đẹp hơn.
Người Thánh là người làm cho tha
nhân quanh mình nhận ra rằng có một sức mạnh và một tinh thần có khả năng
chuyển hóa đời họ, sức mạnh nầy không phải thuộc thế giới nầy mà là ở bên cạnh cuộc
đời. Mỗi vị Thánh hé lộ cho ta nét đại cương của sự cao thượng và thánh thiện
mà mỗi người được mời gọi hướng tới, họ cho ta nhận ra khuôn mặt Thiên Chúa
trong khi ta đang trên đường lữ hành
trần thế.
Với cuộc đời của Karol Wojtyla,
một đứa trẻ vùng Wadowice lớn lên và trở thành linh mục và Giám mục giáo phận
Krakow, tiếp đến là Giám mục giáo phận Roma, và là người hùng cho nhiều thời
đại .. sự thánh thiện thật dễ lan truyền.
Tất cả chúng ta đều cảm kích và được khích lệ nhiều bởi gương của Ngài, Đức
Gioan Phaolô II không chỉ là một “Đức Thánh Cha”, mà còn là người cha đã và
đang là thánh.
Vào ngày lễ tang 8.4.2005, Đức
Hồng y Giuse Ratzinger nói với thế giới rằng: Đức Giáo hoàng đang ngắm nhìn
chúng ta và chúc lành cho chúng ta từ “ cửa sổ của Nhà Cha”,
Khi tưởng nhớ đến người mục tử vĩ
đại, người linh mục và giám mục thánh thiện Gioan Phaolô 2, chúng ta hãy học
gương Ngài để biết cách bước qua ngưỡng cửa, mở cửa ra, biết dựng xây và yêu
mến thập giá, biết loan truyền Tin mứng sự sống cho những người sống trong thời
đại chúng ta.
Ước mong mỗi người chúng ta học
được cách sống, cách chịu đau khổ và cách chết để trở về với Chúa. Xin Ngài
chuyển cầu cho chúng ta và cho những người đang trải qua đau khổ thể xác cũng
như tinh thần. Xin cho chúng ta có ước vọng sẵn sang mang đỡ gánh nặng của
người khác, tiến bước trên con đường thánh thiện và là những vị Thánh.
Nguyễn Văn Thiện, dịch từ báo
Zenit
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét