Anh ra trường năm 1980 và được phân công đến Phân Viện
Sốt Rét TPHCM. Quá chán nản với công tác này, anh bỏ nhiệm sở mà về gia đình
hành nghề chui, với tư cách là một bác sĩ đến từng gia đình bệnh nhân để chữa
trị. Ít ra, anh cũng thực hiện được một trong hai điều mình tự hứa trước kia.
Tuy không có phòng mạch như bao nhiêu bác sĩ khác, nhưng được cái là anh dễ
mến, mát tay và nhận thù lao tương đối hạ, nên thu nhập cũng tạm đủ để giúp
gia đình thoát khỏi cảnh túng thiếu trường kỳ. Cha anh ngưng đạp xích lô. Các
em anh có phương tiện học hành hay thực hiện những mong ước của mình. Thế
nhưng tự đáy lòng, tiếng trách móc của lương tâm không ngừng dày xéo anh:
"Mày là một tên thất trung thất tín!" Một con người
lặng lẽ.
Tháng 04 năm 2002, linh mục Nguyễn Ngọc Sơn phối hợp với
Viện Y Học Dân Tộc Thành Phố Hồ Chí Minh tổ chức một khóa huấn luyện cho
những người thiện chí xung phong chăm sóc người nghiện ma túy. Tôi để ý đến
một người trung niên khắc khổ, lặng lẽ theo dõi chăm chú và cặm cụi ghi chép
những bài học về lý thuyết và chữa trị theo phương pháp cổ truyền do các bác
sĩ đông y của Viện Y Học giảng dạy. Tôi hỏi một nữ tu trong ban tổ chức xem
người ấy là ai. Câu trả lời làm tôi ngỡ ngàng: Đó là bác sĩ tây y Nguyễn Viết
Chung, một chuyên viên về ký sinh trùng và da liễu.
Hai tháng sau, cũng tại Viện Y Học Dân Tộc, cha Sơn tổ
chức một khóa cai nghiện mang tên là Khóa Phục Sinh. Các bác sĩ của Viện phụ
trách phần chữa trị thể lý. Các linh mục, tu sĩ và một vài giáo dân đến giúp
phần củng cố tâm linh. Một hôm, tôi đến dự giờ cầu nguyện buổi tối do một nữ
giáo dân hướng dẫn. Sau phần trình bày lý thuyết, vị ấy yêu cầu những ai thấy
cần được đặt tay cầu nguyện thì hãy bước lên. Bác sĩ Chung cũng là một người
theo giúp khóa ấy. Ông bước đến đầu tiên, quì xuống trước mặt người giáo dân
kia, xin đặt tay cầu nguyện cho mình. Cử chỉ khiêm nhường này làm cho nữ tu
phụ trách nhóm cai nghiện cảm động nói với tôi: Thầy Chung là phó tế sắp được
thụ phong trong một ngày gần đây.
Cuối năm 2002, tôi được dòng Vinh Sơn mời đến dạy tiếng
Pháp cho một số thầy chuẩn bị đi học thần học ở nước ngoài. Tại đây tôi gặp
lại thầy phó tế bác sĩ Chung. Thế rồi qua những chia sẻ khiêm tốn nhưng đầy
chân tình, tôi biết được chiều kích cao vời của một con người mờ nhạt, thậm
chí điên rồ, nếu ta nhìn với cặp mắt của xã hội ngày nay. Sau đây là hành
trình của một tâm hồn qua những chặng đường hiếm thấy.
Hoàn cảnh và ước mơ.
Khi nói về cuộc di cư năm 1954, người ta nghĩ đến gần một
triệu tín hữu công giáo đành rời quê cha đất tổ để đi vào Nam với hai
bàn tay trắng hầu tìm một nơi có thể tự do biểu lộ đức tin của mình. Thanh
niên Nguyễn Viết Chương vào Nam
không vì lý do ấy. Anh không phải là Kitô hữu, và tôn giáo không bao giờ là
một vấn đề đối với anh. Như mọi người thuộc giai cấp nông dân thất học và
nghèo xơ nghèo xác trong làng mình, anh Chương chỉ có một cái đạo duy nhất,
ấy là ‘đạo làm người' theo truyền thống Việt Nam. Nếu ai hỏi anh theo đạo nào,
anh bảo rằng anh theo đạo ông bà, mà không thắc mắc xem ‘đạo ông bà' có nghĩa
là gì một cách cụ thể: đấy có thể là đạo mà ông bà đã theo và truyền lại,
hoặc đấy cũng có thể là đạo thờ cúng ông bà tổ tiên. Năm 26 tuổi, nhân biến
cố 1954, anh Chương rời thôn Ngô Xá, huyện Ý Yên, Tỉnh Nam Định, dẫn vợ con
đi theo bà cô vào Nam với hy vọng tìm một con đường thoát ra cảnh nghèo túng,
cái túng thiếu cơ cực khiến cho chị Chương phải mất đi đứa con thứ hai và thứ
ba khi chúng mới chào đời. Anh cảm thấy hài lòng khi được nhận làm một bình
nhì trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù bị chuyển lên vùng cao nguyên để
đóng quân tại Trạm Hành, nơi vòng đai Dalat, cách trung tâm thị trấn 12 cây
số. Năm 1955, người con thứ tư ra đời tại đây. Anh đặt cho con một cái tên
gần giống như tên mình: Nguyễn Viết Chung.
Chung không còn nhớ gì về miền núi nơi mình sinh ra, vì
năm 1960 cha cậu đã chuyển về Saigon để phục
vụ trong một đơn vị không tác chiến. Khi vừa có trí khôn, cậu bé Chung phải
đối diện ngay với thảm cảnh của một gia đình nghèo. Đồng lương của một quân
nhân cấp hạ sĩ chỉ vừa đủ cho hai vợ chồng và bốn đứa con sống lây lất qua
ngày chứ không thể nào có một cuộc sống cho ra sống. Bà Chương là một người
phụ nữ bình dân mù chữ, hằng ngày chỉ biết thắp nhang lên bàn thờ van vái ơn
trên phù hộ cho chồng cho con. Ông Chương là một người sống rất đúng với đạo
đức truyền thống và tôn trọng các phẩm chất trung nghĩa lễ trí tín. Tuy nhiên
cái nghèo đã khiến ông trở nên một người cộc cằn, vì thế không ít lần ông đã
trút những trận lôi đình xuống vợ con mình. Hình ảnh về ‘mái ấm gia đình' còn
lưu lại trong ký ức tuổi thơ của Chung là nỗi sợ đến khiếp đảm khi phải đứng
trong xó nhà chứng kiến cảnh mẹ mình trở thành nạn nhân cho các cơn thịnh nộ
của cha. Từ thuở còn là học sinh tiểu học, Chung mơ hồ nghĩ rằng mình sẽ
không lập gia đình, vì gia đình đối với cậu là một cái gì khủng khiếp. Cậu sợ
gia đình, sợ phải tạo thêm một gia đình bất hạnh.
Sống trong hoàn cảnh này, trí óc non nớt của cậu nảy sinh
một ước mơ kèm theo một quyết tâm: phải học cho thật giỏi để cứu gia đình
thoát khỏi cảnh nghèo. Thế là cậu cắm cúi học tập trong những trường công lập
hạng 2 ở Saigon. Niên khóa 1970-1971, cậu là
một học sinh xuất sắc lớp đệ tứ trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6. Sau khi
thi đậu trung học đệ nhất cấp, cậu quyết định học ngay lớp đệ nhị mà không
theo học đệ tam. Cậu phải làm học bạ giả và ra trường tư mà học. Tuy nhảy lớp
nhưng Chung vẫn học giỏi ở lớp đệ nhị và đệ nhất. Cậu đậu tú tài toàn phần
năm 1973..
"Khi nhìn lại quá khứ, tôi thấy chương trình của
Chúa thật huyền diệu. Nhờ học nhảy lớp đệ tam mà tôi không bị nhập ngũ theo
lệnh tổng động viên 1973, sau ‘Mùa Hè Đỏ Lửa'. Nhờ những cơn thịnh nộ của cha
mà đến năm 39 tuổi tôi vẫn còn độc thân để tự do đáp lại tiếng gọi triệt để
của Thiên Chúa".
Tiếng gọi của cái Mỹ..
Với bằng tú tài trong tay, con đường tương lai bắt đầu hé
mở cho cậu thanh niên 18 tuổi Nguyễn Viết Chung. Một ngày mùa hè năm 1973,
cậu tình cờ đọc bản tin trên tờ Chính Luận: một giám mục người Pháp vừa qua
đời tại trại cùi Di Linh. Vị giám mục ấy là Jean Cassaigne, mà người công
giáo gọi với cái tên quen thuộc là Đức Cha Sanh. Ở trang trong, tờ Chính Luận
thuật lại vắn gọn cuộc đời của vị giám mục tuyệt vời ấy. Từ thập niên 40, khi
được gửi sang Việt Nam,
linh mục trẻ Cassaigne chọn một vùng truyền giáo miền núi của dân tộc ít
người, khu Djiring hẻo lánh (hiện nay là thị trấn Di Linh) cách xa trung tâm
Dalat 80 cây số. Qua những lần viếng thăm mục vụ, cha nhận thấy rằng những
‘người cùi' thường bị loại ra khỏi làng để sống dở chết dở trong những cánh
rừng lân cận, vì thế cha đã thành lập một ngôi làng cho họ và mời các Nữ Tử
Bác Ái lên chăm sóc. Làng phung Kala ở Djiring suốt đời sẽ ở trong trái tim
cha. Khi giáo phận Việt Nam
tách khỏi Cao Miên, cha Cassaigne được tấn phong giám mục tiên khởi địa phận
Sàigòn. Năm 1960, khi Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được thành lập, ngài trao tòa
giám mục Sàigòn lại cho Đức Cha Simon Hòa Hiền rồi trở về sống với anh em của
mình là những người phung hủi ở làng Kala. Ngài yêu thương người phung đến độ
chia sẻ mọi sự với họ, và để yêu thương đến cùng, ngài chia sẻ cả bệnh tật
của họ để chết dần chết mòn trong thân thể đớn đau của một người đã nhiễm
bệnh phung.
Đọc tiểu sử cố giám mục Cassaigne, Chung không để ý đến
chức vị của ngài, mà chỉ thấy tấm lòng mênh mông của một mẫu người tuyệt đẹp.
Tuổi 18 là tuổi say mê các thần tượng và gửi gắm vào đấy những ước mơ thầm
kín chực chắp cánh bay cao. Cái Đẹp trong cuộc sống đức cha Sanh đã biến ngài
thành thần tượng của anh. Những thanh niên khác mơ đến tiền tài danh vọng để
tìm ra hạnh phúc, còn Chung thì mong tìm hạnh phúc bằng cách sống một cuộc
sống có ý nghĩa và chết đi cho những người bất hạnh theo gương của thần tượng
mình. Anh quyết định thi vào y khoa: đấy là một nghề có thu nhập cao giúp anh
có thể đưa gia đình ra khỏi cảnh túng thiếu, nhưng đồng thời cũng là phương
tiện để anh chăm sóc người cùi noi bước đức cha Sanh.
Tiếng gọi của cái Thiện.
Sau một năm SPCN (Sciences Physiques, Chimiques et
Naturelles = Lý Hóa Vạn Vật), Chung thấy ước mơ của mình trở thành viển vông.
Việc thi vào y khoa nằm ngoài tầm tay của những người thuộc giai cấp cùng
đinh như anh. Anh thấy rõ điều này khi nạp đơn thi tuyển. Hầu hết các sinh
viên thi vào y khoa đều là con cháu của các bậc có chức có quyền hay của các
doanh nhân giàu sụ. Đa số đã tốt nghiệp từ một trường trung học Pháp hay một
trường công lập nổi danh. Xuất thân từ một gia đình mà người cha là trung sĩ
nhất, với kiến thức học được từ một trường tư thục vô danh, Chung thấy mình
toan làm chuyện đội đá vá trời. Gia đình anh nghĩ rằng anh chạy theo một mục
tiêu vượt quá sức mình nên khuyên anh bỏ ý định thi vào y khoa. Thế nhưng anh
vẫn kiên trì học ngày học đêm mà trong lòng cứ lo sợ miên man. Nhìn thấy mẹ
ngày ngày cầu khẩn những người đã khuất phù hộ cho gia đình, anh bỗng tin vào
những điều huyền diệu. Anh lên Lăng Ông Bà Chiểu, thắp nhang khấn vái với cụ
Lê Văn Duyệt. Anh thầm mặc cả với cụ: "Xin giúp con đậu vào y khoa. Để
đáp lại, con hứa, sau khi trở thành bác sĩ, sẽ phục vụ cho người cùi".
Thế rồi anh đậu vào y khoa ngay lần đầu tiên đi thi, năm 1974. Đối với nhiều
người khác, thứ hạng 181/213 hẳn không có gì đáng nói, nhưng đối với bản thân
anh và đối với gia đình, đấy là một ảo tưởng đã biến thành sự thật một cách
thần kỳ.
Ngày 04-11-1974, Chung nhập học tại Đại Học Y Khoa, lúc
bấy giờ còn mang tên là Trung Tâm Giáo Dục Y khoa Sàigon. Trong những ngày
đầu ngỡ ngàng, anh bị thu hút ngay bởi một người Bỉ, giáo sư Marcel
Lichtenberger, dạy môn Mô Phôi Học (histologie et embryologie). Ngoài kiến
thức uyên bác, giáo sư Lichtenberger còn tỏa ra tư cách của một người thầy
khiêm tốn và tận tụy, cứ như thể ông muốn dạy cho học trò mình một cái gì đó
vượt lên hẳn những kiến thức y khoa. Chung tìm được lời giải đáp cho những
thắc mắc của mình khi tất cả sinh viên năm thứ nhất, dù công giáo hay không,
đều được mời dự một thánh lễ gọi là Maccabée tại nhà thờ Jeanne d'Arc, để cầu
nguyện hay tỏ lòng nhớ ơn những người hiến xác cho sinh viên thực tập giải
phẫu. Chung hiểu được vì sao giáo sư Lichtenberger luôn toát ra một cái gì
thanh thoát: linh mục cử hành thánh lễ ngày hôm ấy chính là vị giáo sư khả
kính của mình. Mãi sau này Chung mới biết rằng vị giáo sư ấy là một linh mục
từng phục vụ ở Trung Hoa rất nhiều năm và gần gũi với những người bệnh mà
không ai cứu chữa. Mang con tim nhạy cảm trước các nỗi bất hạnh, linh mục
Lichtenberger, với kiến thức y khoa của một y công, đã phải mổ hàng trăm ca
mà không có một bằng cấp nào; để rồi năm 44 tuổi, ngài mới về Bỉ học cho hết
chương trình bác sĩ trong vòng 4 năm, thay vì 8 năm như mọi sinh viên y khoa
khác. Tấm lòng của vị linh mục đã buộc ngài trở thành một bác sĩ thực thụ năm
48 tuổi. Chung chưa hề biết đến điều đó khi ngồi trên ghế đại học y khoa,
nhưng nhìn thấy cha Lichtenberger trong áo lễ màu tím xuất thần cầu nguyện
trên bàn thờ, Chung cảm nhận rằng thần tượng thứ hai của mình cũng đã đặt nền
móng cho cuộc đời ông trên cùng một cội nguồn như thần tượng thứ nhất. Từ cái
Mỹ mà anh đọc qua cuộc đời Đức Cha Cassaigne, chàng sinh viên Chung đã nghe
được tiếng gọi của cái Thiện xuất phát từ tâm hồn của vị thầy tốt lành này.
Cái Thiện ấy rất gần mà cũng rất xa đối với anh. Có lần
giáo sư Lichtenberger yêu cầu sinh viên điền vào tờ khai báo lý lịch trong đó
có một ô ghi: nguyện vọng tương lai của anh (chị). Chung điền vào mọi ô khác
một cách nhanh chóng rồi ngồi mãi trước ô ‘nguyện vọng tương lai' mà không
biết phải viết làm sao. Đối với các bạn khác thì không có gì phải suy nghĩ.
Khi bước vào y khoa, họ đã có những hoài bão rõ ràng cho ngày mai rồi: trở
thành một bác sĩ giỏi, theo học cao hơn ở nước ngoài, có một nơi làm việc
xứng đáng, tìm cơ hội để thăng tiến trong nghiệp vụ và trong xã hội con
người... Khi hết giờ, Chung nộp tờ khai mà ô nguyện vọng vẫn còn để trống.
"Tôi xấu hổ không dám thổ lộ cho giáo sư Lichtenberger biết rằng nguyện vọng
tương lai của mình là làm sao trở nên giống như giáo sư".
Những tháng ngày ray rứt.
Con đường học vấn tưởng chừng đã êm ả thì biến cố 1975
đến đảo lộn mọi sự. Trường Y Khoa là một trong những trường mở cửa lại sớm
nhất sau ngày 30 tháng 04, tuy nhiên đối với Chung, điều kiện tài chính ít ỏi
để học tập đã biến mất. Cha anh là một trung sĩ nhất trong chế độ cũ nên
không phải đi học tập, nhưng người anh cả từng là trung úy thì đang ở trong
trại tập trung cải tạo. Chung không thể nào đang tâm nhìn cha hằng ngày đạp
chiếc xích lô vắng khách để nuôi nấng năm đứa con đang lớn như thổi ở nhà.
Anh thấy mình vừa có bổn phận phải chia sẻ gánh nặng với cha vừa phải tiếp
tục đi học. Hàng đêm, anh thay cha đạp xích lô từ 7 giờ đến 11 giờ khuya. Sau
một thời gian, anh không còn sức lực để vừa đi học ban ngày vừa đạp xích lô
ban đêm, nên đành phải chấp nhận để cha và em trai mình tìm kế sinh nhai cho
cả nhà, còn anh thì theo học để mong tìm một lối ra cho gia đình vào những
năm về sau. Ý thức sự thiếu hụt của mọi người, Chung không đòi hỏi một điều
gì cả. Đêm đêm, anh xin vào trực bệnh viện mong có cơ hội thực tập qua các
trường hợp cấp cứu. Có những đêm phải thức trắng rồi sáng hôm sau không có
một đồng dính túi để điểm tâm, anh vào lớp học mà mắt cứ hoa lên vì buồn ngủ
và vì đói.
"Phải trung thành với ý nguyện ban đầu, bằng bất cứ
giá nào" ... Với quyết tâm ấy, chàng thanh niên Chung mỗi năm lên một
lớp cho đến 1978. Bước vào năm thứ năm, mọi sinh viên phải theo một chuyên
khoa. Các sinh viên trình lên một bản gồm 3 nguyện vọng. Nhớ ơn người mẹ đã
cơ cực qua 9 lần sinh con, mà mỗi lần là một biến cố thập tử nhất sinh, Chung
chọn ngành ‘sản khoa' ở nguyện vọng 1. Trong niên khóa ấy, giáo sư Đạt, một
bác sĩ chuyên về nội thần kinh, đã làm cho anh thích thú môn học này, vì thế
anh ghi ‘nội thần kinh' ở nguyện vọng 2. Còn nguyện vọng 3, anh đành ghi ‘da
liễu' để có thể trả lời với cụ Lê Văn Duyệt rằng mình không thất hứa. Ngày
nghe tuyên bố về chuyên khoa của mình, Chung hụt hẫng. Anh bị phân vào chuyên
khoa ‘ký sinh trùng sốt rét'. Anh chẳng vào được khoa nào trong ba nguyện
vọng anh ghi. Suốt hai năm còn lại tại trường Y Khoa, anh sống với tâm trạng
đằn vặt của một người thất tín thất trung. Anh tự trách: "Vì mình không
trung thành với lời hứa phục vụ người cùi, nên đấng bề trên chuyển mình sang
khoa ký sinh trùng để xử phạt về tội bội tín!"
Trả món nợ lương tâm....
Anh ra trường năm 1980 và được phân công đến Phân Viện
Sốt Rét TPHCM. Quá chán nản với công tác này, anh bỏ nhiệm sở mà về gia đình
hành nghề chui, với tư cách là một bác sĩ đến từng gia đình bệnh nhân để chữa
trị. Ít ra, anh cũng thực hiện được một trong hai điều mình tự hứa trước kia.
Tuy không có phòng mạch như bao nhiêu bác sĩ khác, nhưng được cái là anh dễ
mến, mát tay và nhận thù lao tương đối hạ, nên thu nhập cũng tạm đủ để giúp
gia đình thoát khỏi cảnh túng thiếu trường kỳ. Cha anh ngưng đạp xích lô. Các
em anh có phương tiện học hành hay thực hiện những mong ước của mình. Thế
nhưng tự đáy lòng, tiếng trách móc của lương tâm không ngừng dày xéo anh:
"Mày là một tên thất trung thất tín!"
Năm 1984, sau khi cưới vợ gả chồng cho các em, cũng như
giúp họ ổn định cuộc sống, Chung quyết định trả cho xong món nợ lương tâm
bằng cách bỏ lại mọi sự mà đi chăm sóc cho bệnh nhân cùi. Ý nghĩ đầu tiên là
phải phục vụ tại Di Linh, nơi mà thần tượng thứ nhất của anh đã thành lập, đã
sống, đã chết và hiện nay mộ phần ngài vẫn còn nằm tại đấy, trơ gan cùng tuế
nguyệt như một chứng tích tình yêu. Anh lên trại phong Di Linh xin nữ tu phụ
trách cho phép anh làm việc ở đấy. Các nữ tu rất trân trọng ý định của anh
nhưng không thể đáp ứng yêu cầu, vì Trại Phong lúc bấy giờ đã trở thành một
cơ sở của Nhà Nước mà các nữ tu không có quyền tuyển dụng nhân viên. Anh trở
về Trường Y Khoa xin chuyển lên Di Linh. Về mặt hành chánh, nhà trường không
thể bổ nhiệm anh vào trại phong mà chỉ có thể chuyển anh lên Sở Y Tế Lâm
Đồng. Cầm giấy tờ trong tay, anh trình diện với vị trưởng phòng tổ chức Sở Y
Tế và nói lên nguyện vọng được về Trại Phong Di Linh. Bà trưởng phòng ngạc
nhiên hỏi:
Anh có điên không? Hay là anh bị cùi?
Nếu tôi
cùi thì bà đã thấy rồi. Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều
tôi biết là tôi mong muốn phục vụ những người cùi.
Anh sẽ
nhận việc tại trạm sốt rét, vì chuyên khoa của anh là ‘ký sinh trùng sốt rét'
chứ không phải là ‘da liễu'.
Tôi lên
đây vì muốn phục vụ tại trại phong Di Linh. Nếu bà không cho phép thì tôi về
lại TP Hồ Chí Minh chứ không làm việc ở bất cứ nơi nào khác.
Về lại
Saigon, anh tìm cách thực hiện lời hứa cho bằng được. Không thể nào phục vụ
người phong nếu thiếu chuyên khoa da liễu, nên anh xin làm một nơi gần Saigon
để có cơ hội bổ túc về chuyên khoa. Ngày 01-07-1986, anh bắt đầu nhận việc
tại Trạm Sốt Rét Đồng Nai, trong khi chờ đợi cơ hội. Sau 3 năm làm việc tại
đấy, cơ hội đã đưa anh đến Bệnh Viện Da Liễu TP Hồ Chí Minh. Tại đấy, anh vừa
phục vụ vừa học chuyên khoa với điều kiện sau này phải chăm sóc người phong
của Thành Phố, nghĩa là làm việc tại trại phong Bến Sắn.
Tiếng
gọi của cái Chân.
Năm
1992, anh xuống Bến Sắn để nhận nhiệm sở mới. Thế là mãn nguyện. Ước mơ tuổi
thanh niên đã trở thành hiện thực. Từ sáng thứ hai đến trưa thứ sáu, anh làm
việc tại trại phong Bến Sắn để bước cùng nhịp với các thần tượng hầu trung thành
với lời hứa của mình. Từ tối thứ sáu đến chiều chủ nhật, anh về Saigon làm
bác sĩ tại gia để tìm một ít thu nhập cho cha mẹ sống qua tuần. Cuộc đời anh
dường như đã tới đích, anh không còn ước mơ gì nữa.
Thế
nhưng anh lại phải đối diện với những vấn đề mới của cuộc sống. Tại trại
phong, anh thấy mình sống ở giữa hai nhóm người hoàn toàn trái ngược trong
thái độ hành xử. Nhóm thứ nhất gồm những người thiện chí, mà đa số là các Nữ
Tử Bác Ái, chỉ sống tất cả cho bệnh nhân; nhóm thứ hai gồm một số người nghĩ
đến tư lợi của mình nhiều hơn là lợi ích người bệnh. Với tư cách là trưởng
phòng y vụ, bác sĩ Chung được nhóm thứ hai săn đón để lôi kéo về phe mình,
nhưng anh lại bị cuốn hút bởi nhóm thứ nhất, vì qua họ anh hầu như chạm được
cái Chân tiềm tàng nơi những người mà anh từng đặt làm khuôn mẫu cho cuộc đời
mình: Giám mục Cassaigne và linh mục Lichtenberger. Chính các nữ tu này đã
khiến cuộc đời anh dứt khoát rẽ qua một bước ngoặt triệt để.
"Tôi
còn nhớ sự kiện sau đây. Có lần hai anh em người Pháp đều là linh mục đưa một
bác sĩ cũng quốc tịch Pháp đến cưa chân cho một số bệnh nhân tại trại phong
Bến Sắn. Vết thương của một người bị nhiễm trùng, nên anh đã lớn tiếng với
tôi: "Ông dùng tôi làm con vật thí nghiệm!". Tôi quá tức giận nên
đã nặng lời với anh. Một xơ cao niên chứng kiến cảnh này mà không nói một lời
nào. Vài ngày sau, khi mọi chuyện đã êm, xơ nhẹ nhàng bảo tôi:
Bác sĩ
Chung à, bệnh nhân đau chứ bác sĩ có đau đâu! Anh ấy bị cưa chân chứ bác sĩ
có bị cưa chân đâu! Những gì bác sĩ làm cho bệnh nhân, bác sĩ đừng cho là
nhiều rồi. Những điều bác sĩ làm cho họ không đền bù được nỗi đau cả đời của
họ đâu!
Tôi bỗng
thấy nơi xơ cao niên ấy một sức mạnh tinh thần họa hiếm. Ai đã giúp cho xơ có
được lòng quảng đại thanh thản như thế? Chắc là Chúa của xơ. Nếu Chúa của xơ
có thể ban cho xơ một sức mạnh như thế, thì Ngài cũng phải là Chúa của
tôi!"
Ý nghĩ
rằng Chúa của các Nữ Tử Bác Ái cũng có thể là Chúa của mình vừa làm cho anh
vui, vừa làm anh e ngại. Lời dặn dò của mẹ, từ thuở anh còn là một cậu bé
tiểu học cư ngụ trong xóm đạo, cứ văng vẳng bên tai: "Chung không được
đi đạo nhé. Người công giáo kỳ cục lắm, cứ dụ người ta theo đạo. Đạo ai nấy
giữ chứ!".
Quả là
những người công giáo ở đây thật kỳ cục. Nhất là nữ tu công giáo. Nhưng kỳ
cục không phải vì họ dụ dỗ anh theo đạo, mà vì họ sống trên đời nhưng không
bao giờ nghĩ đến bản thân mình. Một trong các nữ tu mà anh có cơ may cộng tác
một thời gian ngắn là xơ Maria Phạm Thị Ngọc Loan, được mọi người trong trại
gọi với cái tên thân thương là Dì Hai. Khi bác sĩ Chung về trại phong, Dì Hai
đang ở đấy với hai tư cách: Phó Giám Đốc trại phong và Xơ Phục Vụ (soeur
servante = dì bề trên) cộng đoàn Nữ Tử Bác Ái Bến Sắn. Anh nghe kể lại rằng
Dì Hai về đây năm 1976, lúc mà chế độ chăm sóc các bệnh nhân phong hầu như
không có gì, trong khi những nhân viên mới đổi tới lấy hết cái này đến cái nọ
trong trại về làm của riêng. Dì đã phải đứng ra bảo vệ cho bệnh nhân và cỡi
chiếc gắn máy tồi tàn chạy bằng xăng pha dầu lửa về thành phố Hồ Chí Minh mỗi
tuần nhiều lần hầu tìm nguồn lương thực cho họ, đồng thời kêu gọi và đưa về
Bến Sắn những bệnh nhân bỏ trại lên sống vất va vất vưởng trên vỉa hè Sàigòn.
Tim của Dì đập theo từng nhịp của con tim bệnh nhân trong vòng 17 năm trường,
để rồi ngưng lại khi người ta phát hiện quá muộn bệnh ung thư trong hình hài
của Dì. Dì sợ rằng cho biết sớm thì nhà dòng sẽ cấm dì tiếp tục phục vụ bệnh
nhân phong: Dì đã hy sinh mạng sống mình cho họ, theo nghĩa đen.
"Hôm
ấy chúng tôi sắp đi công tác từ TP Hồ Chí Minh. Biết rằng Dì Hai đang ở vào
những giờ phút cuối đời, tôi ghé lại 36 Tú Xương để chào từ biệt. Tôi nói:
Dì Hai
à, chút xíu nữa đây, con với bác sĩ Quang và chị Bích Vân sẽ lên trại phong
Di Linh mổ mắt cho bệnh nhân trên ấy.
Nghe tôi
nói, đôi môi héo hắt của Dì Hai thoáng nở một nụ cười. Tôi bước ra ngoài chờ
xe. Xe chậm đến. Nghĩ rằng đây có lẽ là lần cuối cùng còn gặp mặt Dì Hai, nên
tôi luyến tiếc trở lại một vài phút cạnh Dì. Nghe tiếng chân tôi vào, Dì Hai
hé mở mắt, nhìn thấy tôi, mấp máy đôi môi để nói lên một điều gì. Xơ chăm sóc
ghé tai vào miệng Dì lắng nghe, rồi lặp lại cho tôi: "Chung - Dì Hai hỏi
- tại sao chưa đi?" Thế đấy! Đến giây phút cuối cùng của cuộc đời, Dì
Hai vẫn không nghĩ gì đến mình, mà chỉ nghĩ đến bệnh nhân. Không chỉ là bệnh
nhân tại Bến Sắn mà còn cả bệnh nhân tại Di Linh nữa!"
Một bước
ngoặt triệt để.
Chung! Tại sao chưa đi?
Vâng, đã đến lúc bác sĩ Chung quyết định đi đạo, đi theo
con đường mà Dì Hai Loan đã từng đi. Sau đám tang của Dì Hai, anh đến gặp Dì
Camille Hạnh, giám tỉnh dòng Nữ Tử Bác Ái, và trình lên ý nguyện đi tu để
sống trọn vẹn cho bệnh nhân giống như các dì. Dì Hạnh thông cảm từ thâm sâu
mong ước của anh, vì dì cũng từng là một người chịu phép rửa vào tuổi trưởng
thành trước khi dâng hiến trọn đời mình cho Chúa với tư cách nữ tu.. Trong
thời gian này, cha bề trên tổng quyền Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn đang
có mặt tại Saigon (Thánh Vinh Sơn Phaolô
cũng là vị sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái), nên Dì Hạnh đã đứng ra bảo lãnh và
xin ngài nhận anh vào dòng Truyền Giáo. Cha tổng quyền chấp thuận nhưng bảo
rằng chỉ nhận vào dòng sau khi anh học đạo và chịu bí tích thánh tẩy. Lúc bấy
giờ anh chưa có khái niệm gì rõ ràng về Thiên Chúa. Điều duy nhất anh biết:
Ngài phải là cội nguổn của Chân Thiện Mỹ, bởi vì Ngài là Thiên Chúa của những
con người sống cuộc đời chân thật, tốt lành và tuyệt đẹp. Vì thế, anh không
do dự mảy may: Chúa của Đức Cha Cassaigne, của Cha Lichtenberger, của Dì Hai
Loan, sẽ là Chúa của anh. Chỉ còn một vướng mắc nhỏ: cha mẹ anh nghĩ sao? Anh
trình với song thân và hai vị bảo:
"Con đã lớn nên toàn quyền chọn con đường có ý nghĩa
nhất cho đời mình; các em con cũng đã lớn, chúng có thể chăm sóc cha mẹ, con
đừng lo."
Ngày 28-08-1993, hai mươi năm sau bài báo của Chính Luận,
bác sĩ Chung đến dòng Tên tại Bình Dương gặp cha Hoàng Văn Đạt xin học giáo
lý tân tòng. Cha vui mừng báo anh hay rằng ngày hôm ấy Giáo Hội mừng lễ thánh
Âu Tinh, một người đã chịu phép rửa khi đang là một giáo sư lỗi lạc tại Rôma,
để rồi trở thành một linh mục và một giám mục thánh thiện và uyên bác tại
Hippone, một thành phố Châu Phi. Để đánh dấu cho bước ngoặt đáng ghi nhớ này,
anh chọn thánh Âu Tinh làm quan thầy mình. Âu Tinh Nguyễn Viết Chung lãnh
nhận bí tích thanh tẩy từ tay cha chính xứ Bến Sắn, linh mục Trần Thế Thuận,
ngày 15-05-1994, tại nhà nguyện Trại Phong Bến Sắn.
Ngày 15-09-1994, anh trở lên Đalat, nhưng lần này không
phải đến Sở Y Tế xin phục vụ người phong, mà đến 40 Trần Phú, trụ sở dòng
Truyền Giáo Vinh Sơn, để khởi sự tập luyện cuộc sống quên mình trọn vẹn. Muốn
thời gian tìm hiểu không gây trở ngại cho tương lai của bác sĩ Chung, nếu ơn
gọi linh mục không phải là con đường Chúa dành cho anh, bề trên Tu Hội Truyền
Giáo tại Việt Nam đề nghị anh làm quen với nếp sống tu trì tại Túc Trưng.
Suốt một năm ròng, mỗi tháng bác sĩ Chung làm việc 3 tuần liên tục ở Bến Sắn,
và dành trọn tuần thứ tư để sống tại nhà dòng Túc Trưng. Trong thời gian thử
thách này, anh đã chu toàn đúng mức hai vai trò trái ngược của mình: Bác sĩ
trưởng tại Trại Phong và em út trong cộng đoàn Vinh Sơn. Sau một năm, bề trên
thấy rằng đã đến lúc anh bỏ vai trưởng để chỉ còn sống trong vai út. Anh xin
nghỉ việc tại Trại Phong Bến Sắn và chính thức gia nhập Tu Hội Truyền Giáo
ngày 01-06-1995.
Thời gian nhà tập hẳn không dễ dàng gì cho một người đã
công thành danh toại rồi một sớm một chiều trở nên ‘lính mới' phải vâng phục
mọi người, trong số đó có những thầy bằng nửa số tuổi của anh. Thế nhưng bác
sĩ Chung biểu hiện tư cách của một con người đã thực sự tự hủy theo gương
Chúa Kitô. Các thầy cùng thời với anh chân thành thổ lộ: "Anh Chung luôn
là một mẫu gương khiêm nhường cho tất cả chúng em."
Nhà dòng cho phép tu sĩ Chung học dồn chương trình triết
học trong vòng một năm, để rồi khởi sự 4 năm thần học kể từ năm 1997. Ngày
25-03-2003, Giáo Hội trao thừa tác vụ linh mục cho thầy Âu Tinh Nguyễn Viết
Chung, qua lễ đặt tay của Đức Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống, tại nhà thờ Đức Mẹ
Hằng Cứu Giúp TP Hồ Chí Minh.
Hành trình của một cuộc đời.
Hành trình của một cậu bé sợ hãi trong xó nhà đã kết thúc
nơi bàn thánh. Một người khởi hành trong cái nghèo khó bị áp đặt, đi cả một
vòng đời, rồi đến đích trong sự khó nghèo tự nguyện. Một người đi từ nỗi bất
hạnh vì phải nghèo đến niềm hạnh phúc được sống nghèo. Một người suốt đời
mang trong mình tiếng gọi: Phải trung thành! Và nhờ lòng trung thành ấy mà
linh mục Nguyễn Viết Chung nhận được Tin Mừng Cứu Độ, không phải qua những
lời rao giảng, mà qua hành động cụ thể của những con người, để rồi từng buớc
nghe được cái Mỹ, thấy được cái Thiện, chạm được cái Chân xuất phát từ Chúa
Kitô, Đấng Tình Yêu muôn đời tận hiến.
"Nếu tôi có một lời để nhắn nhủ với người trẻ hôm
nay, thì tôi chỉ nói với họ điều này: Khi bạn phải sống trong hoàn cảnh của
một người nghèo, bạn cần nỗ lực ban đầu để vượt qua, nhưng hãy nhớ rằng mình
luôn có những vấp váp. Rồi một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng tiền không phải
là trên hết. Điều làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa, ấy là phải trung thành.
Tôi đã từng bất trung. Và đã phải thông qua những kinh nghiệm chua
chát."
"...Tôi còn nhớ hôm cha tổng quyền chấp thuận cho
tôi nhập dòng Vinh Sơn là ngày thứ bảy. Qua hôm sau, ngày chúa nhật, các cha
Dòng Camillo mở diễn đàn kêu gọi các thanh niên dâng hiến đời mình với tư
cách là bác sĩ linh mục. Đây là đặc sủng của dòng ấy, và lời kêu gọi này rất
phù hợp với tôi. Thế nhưng tôi đã trốn không tham dự, vì muốn trung thành với
Tu Hội Vinh Sơn. Tôi đã biết thế nào là giá phải trả cho sự bất trung
rồi."
Con đường của bác sĩ Chung tưởng chừng như kết thúc tại
cung thánh khi lãnh nhận chức linh mục. Tuy nhiên, từ nơi ấy lại khởi đầu cho
một hành trình mới. Bác sĩ Chung trở lại với những bệnh nhân Aids ở Mai Hòa,
với những người nghiện ma túy ở nhiều tổ chức và trung tâm khác nhau... Nhưng
lần này, qua việc chữa trị thân xác, linh mục Chung còn đem lại cho họ bình
an tâm hồn, một niềm bình an xuất phát từ Thiên Chúa của những người mình
ngưỡng mộ và cảm phục, mà giờ đây đã trở thành Thiên Chúa của chính mình. Với
chức linh mục, bác sĩ Chung làm chứng cho Tình Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng
nghiệp vụ và tác vụ, mà còn bằng cả đời sống của bản thân mình.
Nhìn lại con đường đã qua, bác sĩ Chung thường xuyên lặp
lại phương châm mình đã chọn cho ngày thụ phong:
"Tạ ơn Chúa, Chúa nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn
trọn tình thương."
Và nhìn vào ngày mai, linh mục Chung không ngừng trung
thành cam kết:
"Điều khấn hứa cùng Ngài, con xin giữ trọn."
Con đường Chúa đã dẫn đi...
Thiên Chúa đã đến trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng
những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc
trong một tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu thần tượng trên thế gian,
Nguyễn Viết Chung biết chắt lọc một vài khuôn mẫu định hướng cho cuộc đời
mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan... đấy là chưa kể đến
nhiều người khác, trong đó có thân mẫu của mình, một người mẹ đã suốt đời âm
thầm chịu đựng cho đến khi mù lòa. Giữa các gương mặt ấy, có một nhân vật gần
giống như Nguyễn Viết Chung: Linh Mục Bác Sĩ Marcel Lichtenberger. Thế nhưng
con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn trái ngược nhau. Năm 25 tuổi, cha
Lichtenberger bị tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến với những con người
bất hạnh tại Trung Hoa; và trước những thương tích của Chúa Kitô thể hiện
trên hình hài các bệnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để
rồi trở thành một bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, Nguyễn Viết Chung tốt nghiệp
bác sĩ năm 25 tuổi, thế rồi vì muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn cùng của bệnh
nhân nên rốt cục đã gặp Chúa Kitô chịu đóng đinh trong những con người bất
hạnh, và điều này khiến cho vị bác sĩ tận tâm kia từ bỏ mọi sự để trở thành
linh mục của Chúa vào tuổi 48. Một linh mục trở thành bác sĩ đã là đèn soi
cho một bác sĩ trở thành linh mục. Hành trình trái ngược của hai linh mục bác
sĩ này bộc lộ cho chúng ta một chân lý. Ai đến với Thiên Chúa một cách chân
thật và trung thành thì rồi sẽ liên đới với những con người bất hạnh. Và ai
liên đới với người cùng khổ một cách chân thật và trung thành thì rồi sẽ gặp
được Thiên Chúa từ nơi thâm sâu của lòng mình.
|
Danh sách Blog của Tôi
Thứ Bảy, 2 tháng 2, 2013
NGUYỄN VIẾT CHUNG VÀ TIẾNG GỌI CỦA CHÂN THIỆN MỸ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét